17K24LKTB.PLT07A. Nguyễn Thiên Ngân. 24A4061951. Đ06 PDF

Title 17K24LKTB.PLT07A. Nguyễn Thiên Ngân. 24A4061951. Đ06
Author Shiro Shitan
Course Triết học Mác Lênin
Institution Học viện Ngân hàng
Pages 15
File Size 312.5 KB
File Type PDF
Total Downloads 20
Total Views 195

Summary

Download 17K24LKTB.PLT07A. Nguyễn Thiên Ngân. 24A4061951. Đ06 PDF


Description

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: Triết học Mác-Lê nin (PLT07A)

ĐỀ TÀI:

Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến

những thay đổi về chất và ý nghĩa của nó với việc nâng cao chất lượng học tập của sinh viên hiện nay

Giảng viên hướng dẫn : Chu Thị Hiệp Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thiên Ngân Lớp : K24LKTB Mã sinh viên : 24A4061951

Hà nội, ngày 27 tháng 12 năm 2020

MỤC LỤC MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..1 NỘI DUNG PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG 1.1 . Nội dung phương pháp luận Phạm trù chất và lượng…………………………………………3 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất …... ………………………..5 1.2 . Ý nghĩa phương pháp luận……………………………………………6 PHẦN II: LIÊN HỆ THỰC TẾ VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN 2.1. Liên hệ thực tế……………………………………………………….8 2.2. Liên hệ bản thân………………………………………………………..10 PHẦN III: KẾT LUẬN …………………………………………………...12 TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………...13

2

Mở Đầu Quy luật chuyển đổi giữa lượng và chất và chất là quy luật cơ bản, phổ biến của phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Mối quan hệ giữa lượng và chất là tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Đối với mỗi học sinh, ước mong của mỗi người khi bước chân vào đại học chính là được trau dồi, nghiên cứu và học tập trong một môi trường hoàn toàn khác với trước đây. Đa số các bạn học sinh sau khi trở thành sinh viên thì đều bỡ ngỡ và cảm thấy choáng ngợp trước sự thay đổi môi trường giữa phổ thông và đại học, điều này đồng nghĩa với việc chúng ta cần phải thay đổi phương pháp học mới thay vì phương pháp truyền thống. Ở đại học hầu như chúng ta chỉ được nghe thầy cô giảng và hướng dẫn, sau đó phải hoàn toàn tự mày mò tìm hiểu thêm và chính bản thân phải tìm tòi và học hỏi để trau dồi kiến thức. Em chọn đề tài này với mong muốn rằng thông qua việc nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và quy luật lượng – chất nói riêng có thể giúp cho những bạn sinh viên có thể nâng cao, thay đổi phương pháp học tập của mình, cũng từ đó rút ra kinh nghiệm trong quá trình học tập để có thể đạt được kết quả học tập tốt trong những năm tháng đại học tới. Mục đích của bài tiểu luận là đưa môn triết học ứng dụng vào cuộc sống, Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất. Giúp ích trong việc nâng cao chất lượng học tập của sinh viên hiện nay. Để đạt mục đích đó thì cần phải giải quyết những nội dung sau: tìm hiểu nội dung phương pháp luận, ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng - chất, liên hệ thực tế và liên hệ bản thân để từ đó nâng cao chất lượng học tập của sinh viên hiện nay.

1

Ý nghĩa lý luận: Giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ý nghĩa thực tiễn: Nhằm vận dụng quy luật lượng chất vào việc nâng cao chất lượng học tập của sinh viên.

2

NỘI DUNG Phần I. Phần Lí luận 1.1.

Nội dung phương pháp luận:

a. Phạm trù “chất” Chất là một phạm trù của triết học, dùng để xác định tính quy luật khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Hiểu một cách đơn giản thì đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành lên sự vật, hiện tượng. Thông qua đó mà nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì? Các đặc điểm để phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chỉ những thuộc tính cơ bản mới tạo thành chất của sự vật, thuộc tính thay đổi thì chất thay đổi. Chất không những được xác định bởi yếu tố cấu thành mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết, vậy nên việc phân biệt thuộc tính cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối . Ví dụ: cốc có nhiều loại chất chất liệu: sứ, nhựa, giấy… b. Phạm trù “lượng” Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng, khái niệm này cho chúng ta thấy một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù hợp với sự vật, hiện tượng đó. Ví dụ: dài 3 mét, nặng 20 ki-lô-gram. c. Nội dung quy luật Lượng – Chất: Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại ở một thể thống nhất bao gồm phần chất và phần lượng. Trong đó phần chất là phần tương đối ổn định còn phần lượng là phần thường xuyên có sự biến đổi. Sự biến đổi này của lượng sẽ tạo nên sự mâu thuẫn giữa lượng và chất. Trong một điều kiện 3

nhất định đáp ứng được sự biến đổi về lượng, một sự vật, hiện tượng sẽ có sự biến đổi về lượng, đến một mức độ nhất định, nó sẽ phá vỡ chất cũ. Lúc này mâu thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất mới được hình thành với một lượng mới. Tuy nhiên bản chất của lượng là vận động nên nó sẽ không đứng yên mà sẽ tiếp tục vận động đến một thời điểm nào đó nó sẽ làm phá vỡ chất hiện tại. Quá trình vận động giữa hai mặt Lượng và chất tác động với nhau qua hai mặt: Chúng tạo nên sự vận động liên tục và không dừng lại. Lượng sẽ biến đổi dần dần và tạo nên chất mới, hay nói cách khác, lượng biến đổi dần dần và tạo nên bước nhảy vọt. Sau đó chúng tiếp tục biến đổi dần và tạo nên bước nhảy vọt tiếp theo. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại phát biểu rằng: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng. Theo Mac – Lê nin thì chất và lượng là hai mặt đối lập, bản chất của chất thì tương đối ổn định, ngược lại thì lượng thường xuyên biến đổi. Tuy nhiên chúng lại không thể tách rời nhau, đổi lại giữa chúng đều luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự thống nhất này được xác định trong một độ nhất định khi sự vật đang tồn tại. Trong đó độ là một phạm trù của triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, được biểu thị ở mức độ sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi cơ bản về chất của sự vật đó. Đổi lại khi sự vật mới được hình thành thì từ chất mới thì sẽ có một lượng mới phù hợp, từ đó tạo nên sự thống nhất mới giữa lượng và chất, sự tác động này được hiểu thông qua quy mô, nhịp điệu phát triển mới của lượng. d. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất: Mối quan hệ giữa các khái niệm cấu thành quy luật chỉ ra rằng, mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Chúng tác động biện chứng lẫn nhau. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu 4

hướng hoặc tang hoặc giảm nhưng không lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng, chỉ khi nào lượng thay đổi đến giới hạn nhất định (độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả là sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời. Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Khi sự vật vận động và phát triển, chất và lượng của nó cũng vận động, biến đổi, thay đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn ra độc lập với nhau mà có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Giới hạn đó chính là “độ”. Ví dụ như ở 0oC, nước từ trạng thái lỏng chuyển sang trạng thái rắn, và ở 100oC thì từ trạng thái lỏng chuyển sang trạng thái hơi, thành ra ở hai điểm ngoặt đó, sự thay đổi giản đơn về lượng của nhiệt độ đưa tới sự thay đổi về chất trạng thái của nước. Độ được giới hạn bởi hai điểm nút và sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút trên sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng mới với chất mới tạo ra độ mới và điểm nút mới. Điểm nút là những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về chất của sự vật. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng mới và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Bước nhảy là khái niệm để chỉ sự chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật hiện tượng do những thay dổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, hiện 5

tượng. Căn cứ vào thời gian sự vật thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó, có bước nhảy tức thời và bước nhảy dần dần. Bước nhảy tức thời: làm chất của sự vật, hiện tượng biến đổi nhanh chóng ở tất cả các bộ phận của nó. Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng cách tích lũy dần dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ; trong trường hợp này sự vật, hiện tượng biến đổi chậm hơn. Biến đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về chất, sản sinh chất mới. Rồi trên nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến đổi về lượng là nền tảng và chuẩn bị tất yếu của biến đổi về chất. Biến đổi về chất là kết quả tất yếu của biến đổi về lượng. Quy luật biến đổi về chất và lượng cho thấy trạng thái và quá trình phát triển của sự vật. Mọi đối tượng đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập chất và lượng, những sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất của nó thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tiếp tục tác động trở lại duy trì sự thay đổi của lượng. Quy luật chỉ ra cách thức của sự vận động, phát triển. 1.2.

Ý nghĩa phương pháp luận Quá trình vận động và phát triển của sự vật diễn ra theo chiều hướng

tích lũy về lượng đến một giới hạn nhất định, sau đó sẽ chuyển hóa về chất. Từ đó đã rút ra được những tư tưởng mang tính định hướng, hạn chế được tư tưởng chủ quan, duy ý chí trong việc thực hiện những bước nhảy vọt. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất đem đến hai ý nghĩa cơ bản trong nhận thức và thực tiễn như sau: Đầu tiên, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích lũy về lượng để có biến đổi về chất, không được nôn nóng cũng như 6

không được bảo thủ. Tiếp theo, khi lượng đã đạt đến “điểm nút” thì thực hiện “bước nhảy” là yêu cầu khách quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng. Cần khác phục tư tưởng nôn nóng, tả khuynh và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn. Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa học và quyết tâm thực hiện bước nhảy. Không những cần xác định quy mô và nhịp điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa học, chống giáo điều, rập khuôn, mà còn phải có quyết tâm và nghị lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chin muồi, chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp “bước nhảy” khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng. Cuối cùng, phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng. Nói chung, về mặt nhận thức; ta cần xem xét cả mặt chất và mặt lượng của sự vật, xem xét sự biến đổi về lượng của sự vật dẫn đến sự biến đổi về chất như thế nào. Về mặt thực tiễn, từng bước tích lũy về lượng để tạo tiền đề cho sự thay đổi về chất, biết kịp thời thực hiện bước nhảy, bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy phải được thực hiện một cách cẩn thận. Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực hiện bước nhảy một cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để tránh được những hậu quả không đáng có như không đạt được sự thay đổi về chất, dẫn đến việc phải thực hiện sự thay đổi về lượng lại từ đầu. Nói chung, từ quy luật lượng chất, ta hiểu được mọi sự vật đều vận động và phát triển nhưng cần thời gian và sự tác động từ bên ngoài, từ đó chúng ta biết cách để bố trí thời gian và nỗ lực hợp lý cho bất cứ một kế hoạch nào đó đã được bản thân đặt mục tiêu.

7

Phần II. Vận dụng liên hệ 2.1. Liên hệ thực tế Quy luật lượng chất trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên: a. Như đã đề cập ở phần mở đầu, quá trình học sinh bước chân trở thành 1 sinh viên đại học là một quá trình hoàn toàn khác lạ và khó khăn bởi sự thay đổi môi trường và cách giảng dạy. Vậy hãy so sánh sự khác nhau giữa môi trường, kiến thức của học sinh và sinh viên. Điều đầu tiên có lẽ chính là cách học, ở phổ thông có lẽ chúng ta vẫn chưa có khái niệm tự giác học tập – tự học mà cần có sự kèm cặp của thầy cô, cha mẹ nhưng đối với đại học thì việc tự học trở nên vô cùng quan trọng và cần thiết. đã là sinh viên thì không còn được bố mẹ kèm cặp, nhắc nhở thường xuyên, mà ý thức tự giác sẽ là yếu tố quyết định nhất với năng lực học tập của bạn. Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ, ở thời điểm này bạn không có sổ liên lạc và cũng chẳng có khái niệm họp phụ huynh, vì chúng ta đã đủ 18 tuổi và là người trưởng thành, càng tự do thì trách nhiệm lại càng lớn, nên phải ý thức hơn. Điểm khác biệt tiếp theo là giữa đại học và phổ thông đó là khối lượng kiến thức. có thể bạn là học sinh và đang nghĩ rằng lượng kiến thức phổ thông đã quá nhiều, thế nhưng khối lượng kiến thức ở cấp độ đại học lại là vô hạn, nhiều bạn sinh viên còn không biết bao bao nhiêu là đủ. Ở bậc đại học, việc học tập của sinh viên khác hẳn về chất so với học sinh ở phổ thông. Việc tiếp thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa đạng và phong phú, từ cơ bản đến chuyên sâu, nghiên cứu, tư duy nhiều hơn, đòi hỏi phải siêng năng hơn. Từ sự thay đổi về chất do sự tich lũy về lượng trước đó tạo nên, chất mới cũng tác động trở lại. Trên nền tảng mới, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức của sinh viên cũng thay đổi, tiếp tục hướng sinh viên lên tầm tri thức cao hơn. Quá trình tích lũy các học phần của sinh viên chính là “độ”, các kì thi chính là “điểm nút” và việc vượt qua các kì thi chính là “bước nhảy”, trong đó “bước nhảy” quan trọng nhất chính là tốt nghiệp đại học. Quá trình đó cứ liên tục 8

diễn ra, tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng tạo nên động lực cho sự phát triển của xã hội. Việc nhận thức quy luật lượng chất trong quá trình học tập của học sinh sinh viên có ý nghĩa rất to lớn trong thực tế, không chỉ với bản thân sinh viên mà còn rất có ý nghĩa với công tác quản lý và đào tạo. Điều khác biệt lớn nhất là ở các cấp độ dưới chúng ta phải học những môn học kéo dài cả năm, đặc biệt là đã có sẵn nền tảng cũng như biết được phương pháp học và cách giảng dạy. Còn lên đại học phải tự mày mò, học hỏi, nghiên cứu. Đặc biệt là đăng kí theo học phần chỉ kéo dài 3-4 tháng, rất nhiều môn học cần phải tiếp thu. Chính vì vậy mà sinh viên cần phải thay đổi nếp sống mới và phương pháp học mới sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, phù hợp với yêu cầu của đại học. Mọi người cần phải cố gắng rất nhiều vì tương lai của chính mình cũng như góp phần giúp ích cho xã hội, đất nước. b. Chất lượng học tập của sinh viên hiện nay trong thực tế: Đầu tiên là sinh viên hiện nay rất thụ động trong việc học tập. Làm thêm, dạy kèm, bán hàng,.. dẫn đến lơ là học tập, hoặc không theo nổi chương trình học đại học là những lý do sinh viên bị buộc thôi học. Tuy nhiên đó không phải là lý do chính, vì có những sinh viên vừa học vừa làm thêm nhưng kết quả học tập vẫn đạt điểm cao. Nguyên nhân ở đây là do sinh viên không chịu tìm tòi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình và tâm lí quen với việc “đọc chép”. Từ đó dẫn đến thực trạng thụ động trong học tập của phần lớn sinh viên hiện nay. Tâm lí quen “đọc chép” từ những cấp học trước cũng dẫn tới tình trạng thụ động của sinh viên, nếu giảng viên không đọc thì sinh viên cũng không chép, chỉ ngồi nghe và thực tế là kiến thức đọng lại trong đầu khi đó sẽ rất ít, thậm chí là không có gì. Trong khi đó sinh viên cũng không có thói quen đọc giáo trình và các tài liệu liên quan đến môn học đó khi ở nhà. Rõ ràng khi ngại phát biểu trong giờ học sẽ dẫn đến ngại phát biểu trong cơ quan làm việc sau này. Ngại phát biểu cũng đồng nghĩa với việc không dám nói lên sự thật, không dám nhìn nhận cái sai... Trong mỗi giờ học, chuyện sinh viên phát biểu 9

ý kiến là rất ít thay vào đó là “Giảng viên nêu vấn đề, sinh viên cúi mặt xuống bàn” trong khi đều là những câu hỏi phạm vi sinh viên có thể trả lời được. So với thế giới, sinh viên nước ta còn khá thụ động. Chỉ có khoảng vài phần trăm sinh viên là chủ động. Điều này làm giảm năng lực tự nghiên cứu của sinh viên. Khác với học sinh, nhiệm vụ của sinh viên là học và nghiên cứu. Sinh viên không nên thụ động, lên giảng đường nghe thầy giảng rồi thì không phải học nữa mà phải tự tìm tài liệu đọc để thảo luận trước lớp. Việc thầy cô gợi ý để sinh viên thảo luận cũng thể hiện sự chưa chủ động ở sinh viên. Vậy mà thậm chí, có khi thầy nêu vấn đề thảo luận rồi mà sinh viên vẫn ngồi im, không hăng hái tham gia. Điều này làm giảm chất lượng giờ dạy vì giảng viên muốn nghe ý kiến sáng tạo, giải quyết vấn đề của sinh viên. Một số giảng viên phải đưa ra biện pháp cộng điểm cho sinh viên hăng hái phát biểu nào tích cực phát biểu. Không đọc trước tài liệu làm tăng tính rụt rè của sinh viên khi phát biểu trước lớp. Kết quả là nhiều bạn trẻ tốt nghiệp đại học rồi mà vẫn nhút nhát và e ngại. 2.2. Liên hệ bản thân Giải pháp để nâng cao chất lượng học tập của sinh viên: Qua việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất ta thấy quy luật có một vai trò cực kì quan trọng trong cuộc sống, đặc biệt là một vai trò không thể thiếu để nâng cao chất lượng học tập của sinh viên hiện nay. Là một sinh viên, trước tiên cần phải xác định rõ mục tiêu, động cơ là điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Khi làm bất cứ công việc gì chúng ta cũng đều phải xác định một thái độ đúng đắn, rõ ràng, học cũng vậy, phải biết rõ mình học như thế nào, để làm gì, định hướng tương lai ra sao. Trong môi trường đại học đòi hỏi tính tự giác thì việc xác định trước hướng đi trong tương lai là một điều nên làm để chúng ta biết cần phải làm gì, ôn tập ra sao. Lập cho bản thân một niềm yêu thích, niềm đam mê đối với việc học, đam mê sẽ giúp cho con người ta xác định đúng hành động và thái độ cũng như động lực trong học tập, châm ngòi cho sức 10

mạnh thôi thúc mỗi chúng ta phải nỗ lực vươn lên phấn đấu. Nhưng làm thế nào để biến ước mơ thành hiện thực? Đó chính là xác định phương pháp học tập đúng đắn. Trước hết ta có thể học hỏi, tìm tòi các thầy cô và anh chị thế hệ trước về phương pháp học tập của họ để từ đó tham khảo và rút ra phương pháp phù hợp với bản thân mình. Kiến thức ở trường đại học bao gồm 1 lượng kiến thức vô cùng lớn cũng như là kiến thức chuyên môn nên thường rất khó để tiếp thu và cũng sẽ rất lâu thấy sự tiến bộ vì chúng ta vẫn chưa nạp đủ kiến thức cần thiết để hiểu được tri thức ấy, đó chính là khoảng giới hạn “độ”, vậy việc chúng ta cần phải làm chính là kiên trì học hỏi, không nản chí.. Quy luật lượng-chất giúp ta hiểu được rằng, mặc dù cũng mang tính khách quan, nhưng quy luật xã hội lại diễn ra thông qua các hoạt động có ý thức của con người, do đó khi đã tích luỹ đầy đủ về lượng phải quyết tâm tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh thường biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là thay đổi đơn thuần về lượng. Là sinh viên cần phải nắm chắc mọi cơ hội để có thể thành công. Quy luật lượng-chất giúp nhận thức được rằng, sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng. Do đó, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật đó. Ngoài ra còn phải bổ sung thêm kĩ năng mềm trong cuộc sống như giao tiếp, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng làm việc nhóm. Trên hết là chúng ta cần chủ động hơn trong việc trao đổi việc học, không ngần ngại hỏi bạn bè, thầy cô để giải quy...


Similar Free PDFs