BTL4 - very good very good very good very good very good very good very good very good PDF

Title BTL4 - very good very good very good very good very good very good very good very good
Author Thảo Thu
Course Luật hợp đồng
Institution Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 29
File Size 799.4 KB
File Type PDF
Total Downloads 98
Total Views 439

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHKHOA: LUẬT (CLC)MÔN HỌC: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠINGOÀI HỢP ĐỒNGBuổi thảo luận thứ 4 BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤLớp: CLC – 44B NHÓM 1Giảng viên: ThS. Nguyễn Nhật Thanh Lê Tấn Thành (MSSV: 195 380 101 3198)  Lê Thị Kim Ngọc (MSSV: 195 380 ...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA: LUẬT (CLC)

MÔN HỌC: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG Buổi thảo luận thứ 4 BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ Lớp: CLC – 44B

NHÓM 1

Giảng viên: ThS. Nguyễn Nhật Thanh

      

Lê Tấn Thành (MSSV: 195 380 101 3198) Lê Thị Kim Ngọc (MSSV: 195 380 101 1162) Lê Thanh Phượng Uyên (MSSV: 195 380 101 4269) Nguyễn Chung Phương Tú (MSSV: 195 380 101 2315) Nguyễn Mai Trang (MSSV: 195 380 101 3239) Võ Quỳnh Như (MSSV: 195 380 101 4163) Huỳnh Tố Như (MSSV: 195 380 101 2201) Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 12 năm 2020

VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NGHĨA VỤ Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP.HCM. Ông Phạm Bá Minh là chủ doanh nghiệp cầm đồ Bá Minh.Vào ngày 14/09/2007, bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo thế chấp cho ông Minh một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000đ, thời hạn vay là 6 tháng, lãi suất 3%/1 tháng. Khi hết thời hạn hợp đồng, ông Thảo bà Khen không thanh toán được nên đã kéo dài số nợ trên. Cho đến nay thì mới thanh toán được tiền lãi của 22 tháng là 29.600.000đ, còn nợ 10.000.000đ tiền lãi nên ông Minh yêu cầu trả vốn lẫn lãi là 70.000.000đ trong vòng 1 tháng. Về phần mình, ông Thảo và bà Khen đề nghị trả số tiền trên trong thời hạn 12 tháng.

Tóm tắt Quyết định 02/2014/QĐ-UBTP. Năm 1995, ông Ôn và bà Xuân có cầm cố cho ông Rành 3.000m đất với giá 30 chỉ vàng 24K và thoả thuận sẽ chuộc lại trong 3 năm. Trong thời hạn 3 năm này, ông bà có về chuộc lại đất nhưng ông Rành không đồng ý. Nay ông bà yêu cầu ông Rành phải trả lại đất và ông bà sẽ trả lại 30 chỉ vàng như trên, tuy nhiên ông Rành không đồng ý và yêu cầu phải chuộc với giá thị trường. Toà án sơ thẩm đã cho rằng hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất này là vô hiệu vì pháp luật không cho phép cầm cố quyền sử dụng đất. Tại quyết định kháng nghị, Viện trưởng Viện kiểm soát nhân dân tỉnh Tiền Giang đã bác bỏ nhận định này vì giao dịch trên không trái pháp luật, trái đạo đức, tuân thủ đủ các quy định về nội dung và hình thức nên không thể tuyên vô hiệu. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm cũng đã đồng ý với kháng nghị trên. 2

Tóm tắt Bản án số 04/2010/DSPT. Vào ngày 8/7/2003 và ngày 8/6/2005, bà Hồng có vay của bà Long tổng cộng 360 triệu đồng với lãi 3%/tháng. Khi vay có thế chấp 3 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm: 1 giấy do ông Bính đứng tên và 2 giấy do ông Chấp đứng tên. Bà Hồng chỉ đóng lãi đến tháng 12/2006 rồi ngưng. Nay bà Long khởi kiện yêu cầu bà Hồng, ông Chấp và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Bính liên đới trả cho bà 360 triệu đồng và yêu cầu xử lý tài sản thế chấp. Tuy nhiên Toà án phúc thẩm đã cho rằng pháp luật không cho phép việc thế chấp quyền sử dụng đất giữa các cá nhân với nhau. Vì vậy quyết định hợp đồng vay tài sản trên là vô hiệu và yêu cầu các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận. Câu 1.1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có thể dùng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Trả lời: Điều 320, 331, 332 Bộ luật dân sự 2005 Điều 320. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự 1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch. 2. Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình thành trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết.

Điều 295 BLDS 2015 Điều 295. Tài sản bảo đảm 1. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.

2. Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, Điều 321. Tiền, giấy tờ có giá dùng để bảo đảm thực nhưng phải xác định hiện nghĩa vụ dân sự được. Tiền, trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá 3. Tài sản bảo đảm có thể khác được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. là tài sản hiện có hoặc tài Điều 322. Quyền tài sản dùng để bảo đảm thực hiện sản hình thành trong nghĩa vụ dân sự tương lai. 1. Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao 4. Giá trị của tài sản bảo gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở đảm có thể lớn hơn, hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền bằng hoặc nhỏ hơn giá

đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật trị nghĩa vụ được bảo bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong đảm. doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. 2. Quyền sử dụng đất được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai. 3. Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về tài nguyên. BLDS 2015 đã có sự thay đổi về chế định liên quan đến tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự so với BLDS 2005. BLDS 2015 chỉ có 1 điều luật là Điều 295. Còn BLDS 2005 có tới 3 điều luật quy định về tài sản bảo đảm là Điều 320, 321 và 322. Cũng chính bởi việc tách riêng các loại tài sản ra như vậy nên BLDS 2005 chỉ cho phép “Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch.”, trong khi đó các loại tài sản còn lại thì chỉ đi ghi ngắn gọn là: “Tiền, trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá khác được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.”. Việc này vô hình chung lại khiến người dân hiểu lầm rằng chỉ có vật mới cần điều kiện thuộc quyền sở hữu và phải được phép giao dịch, còn các loại tài sản còn lại thì như thế nào cũng được, không cần xác định là có quyền sở hữu và không cần phải cấp phép được giao dịch. Việc quy định của BLDS 2005 theo hướng liệt kê, sẽ dẫn đến tình trạng quy định không đầy đủ. Do vậy, BLDS 2015 đã khắc phục được những nhược điểm này. Vấn đề liên quan đến tài sản có thể dùng để bảm đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của BLDS 2015 có nhiều thay đổi so với BLDS 2005, cụ thể như sau: 

Thứ nhất , khoản 1 Điều 320 BLDS 2015 và khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 thì BLDS 2005 chỉ quy định vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có và vật được hình thành trong tương lai gồm động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm. Trong khi đó BLDS 2015 thì bỏ quy định này và chỉ ghi ngắn gọn chữ “tài sản”. Việc này giúp loại bỏ rườm rà và có phần bao quát hơn khi thực hiện giao dịch bảo đảm. Ở BLDS 2015 đã bỏ đi quy định “được phép giao dịch” và chỉ quy định “trừ trường hợp cầm giữ, bảo lưu quyền tài sản”. Bởi lẽ, việc bỏ quy định này không phải là cho phép sử dụng tài sản không được phép giao dịch để bảo đảm mà là ở các quy định chung đã có hướng giải quyết. Trong Báo cáo tổng hợp của Bộ Tư pháp về ý kiến nhân dân với Dự thảo đã nêu “về nguyên tắc, tài sản được đem vào giao dịch phải phù hợp với quy định của pháp luật. Nguyên tắc này áp dụng chung cho các loại giao dịch, trong đó có giao dịch bảo đảm”. Ngoài ra, BLDS 2015 bổ sung thêm hai biện pháp bảo đảm mới, đó là “cầm giữ tài sản” và “ bảo lưu quyền sở hữu”. Tuy nhiên, đây không phải là các quy định mới, mà thực tế đã được ghi nhận và thể hiện trong BLDS 2005 nhưng không phải được quy định như là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điểm mới này cho thấy sự tiệm cận với thông lệ quốc tế về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Thứ hai, khoản 2 Điều 320 BLDS 2005 và khoản 3 Điều 295 BLDS 2015 thì BLDS 2015 không làm rõ thế nào là tài sản hình thành trong tương lai như tại BLDS 2005. Việc thay đổi như vậy là tránh được sự khó hiểu và rườm rà vì đã có quy định trong phần Tài sản thuộc những vấn đề chung của BLDS tại Điều 108 BLDS 2015.  Thứ ba, BLDS 2015 cũng bổ sung thêm quy định về giá trị của tài sản bảo đảm tại Khoản 2 Điều 295 : “Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được. “ và khoản 4 Điều 295: “Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm”. Ở khoản 2 thì quy định này được đưa vào để có thể xác định cụ thể tài sản bảo đảm, để có thể dễ dàng bảo vệ quyền và lợi ích của bên. Ở khoản 4 thì quy định này tạo ra sự linh hoạt và cho phép các bên thỏa thuận, nhất là vay vốn ngân hàng thương mại của Nhà nước, không lo sợ về việc cán bộ ngân hàng bị hình sự hóa trong trường hợp tài sản bảo đảm có giá trị nhỏ hơn khoản vay. Thông thường, giá trị thực của tài sản bảo đảm được xác định thông qua bán đấu giá tài sản đó, còn việc xác định giá trị của tài sản bảo đảm trước khi nhận tài sản đó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ mang tính tương đối và để làm căn cứ xác định mức cho vay sao cho việc thu hồi khoản vay an toàn



Câu 1.2: Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay? Trả lời: - Đoạn của bản án 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay: “Ông Phạm Bá Minh trình bày: Ông là chủ doanh nghiệp cầm đồ Bá Minh. Vào ngày 14-09-2007 bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo có thế chấp cho ông một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000 đồng, thời hạn cho vay là 6 tháng, lãi suất thỏa thuận là 3%/tháng” và “Bị đơn bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo xác nhận: Có thế chấp một tờ giấy sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000đ cho ông Phạm Bá Minh là chủ dịch vụ cầm đồ Bá Minh. Lãi suất 3%/tháng”. Câu 1.3: Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao? Trả lời: Trong thực tiễn xét xử, có nhiều quan điểm cho rằng, “căn cứ Điều 105 BLDS 2015, Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.” và căn cứ khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013 : “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất” để xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.” và cho rằng “giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất.” và có quan điểm cho rằng giấy chứng nhận sạp không hội đủ những đặc điểm của tài sản nên không được xem là một loại tài sản. Bởi vì, giấy chứng nhận sạp chỉ

ghi nhận quyền được sử dụng sạp để chủ thể sử dụng, chứ không có đặc quyền nào khác đối với cái sạp, không nằm trong danh mục các loại giấy tờ có giá quy định tại Khoản 9 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP: “9. Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”, và cũng không phải là vật, tiền và quyền tài sản, do vậy giấy chứng nhận sạp không phải là quyền tài sản Tuy nhiên theo quan điểm của cá nhân tôi, nên xem Giấy chứng nhân sạp là tài sản. Bởi lẽ, dựa trên khái niệm tài sản theo Điều 105 BLDS 2015, Giấy chứng nhận sạp không là giấy tờ có giá, tuy nhiên có thể xem Giấy chứng nhận sạp là vật bởi Giấy chứng nhận sạp tồn tại dưới một hình thức vật chất nhất định, thậm có hình dáng cụ thể (là một tờ giấy) nằm trong khả năng chiếm hữu của con người (có thể nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với Giấy chứng sạp), có giá trị sử dụng (dùng để chứng minh quyền sử dụng sạp hợp pháp đối với người sử dụng sạp). Việc Giấy chứng nhận sạp tham gia trao đổi mua bán không làm mất đi bản chất tài sản của nó.; Thứ hai, việc coi Giấy chứng nhận sạp không là tài sản nó dẫn tới nhiều hệ quả không giải thích được về mặt lý luận và thực tế. Xuất phát từ những chế định về kiện đòi tài sản và thực tiễn cho thấy, các loại giấy tờ này có một ý nghĩa rất quan trọng Đồng thời nhận thức này làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người sử dụng sạp. Cụ thể, theo quy định của pháp luật hiện hành quyền sở hữu và quyền định đoạt có thể thực hiện trên các đối tượng là tài sản. Do đó việc coi Giấy chứng nhận sạp không là tài sản đã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất đối với loại giấy tờ này. Câu 1.4: Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? Trả lời: - Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự không được tòa án chấp nhận. - Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng kí sử dụng sạp, không phải quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh”. Câu 1.5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ Trả lời: Theo nhóm tôi, nhóm tôi chưa hoàn toàn đồng ý với hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa đối với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ. Thứ nhất, theo Tòa án là “…giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải quyền sở hữu , nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh.”. Do đó, Tòa án đã khẳng định giấy chứng nhận sạp không phải là tài sản. Nhưng vấn đề ở đây là Tòa án chỉ mới so sánh giấy chứng nhận sạp đối với quyền tài sản, chứ vẫn chưa so sánh “vật, tiền, giấy tờ có giá” là tài sản được căn cứ Điều 163 BLDS 2005 , trong khi đó bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là tài sản chứ không riêng mỗi quyền sở hữu là tài sản. Cho nên việc Tòa án đưa ra quyết định như vậy để khẳng định giấy chứng nhận sạp không đủ cơ sở pháp lý để để thi hành án là chưa thỏa đáng.

Thứ hai¸ theo quan điểm nhóm tôi với khái niệm tài sản được quy định trong BLDS 2005. Tiền là một loại tàn sản đặc biệt, chỉ có Ngân hàng Nhà nước độc quyền phát hành; thực hiện chức năng thanh toán đa năng, công cụ lũy tài sản và cộng cụ định giá các loại tài sản khác. Đối với khái niệm về tiền thì ta có thể thấy rõ được giấy chứng nhận sạp không phải là do Ngân hàng nhà nước ban hành do đó giấy chứng nhận sạp không phải là tiền,  Giấy chứng nhận sạp không phải là là giấy tờ có giá. Vì nếu áp dụng BLDS 2015, giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hồi phiếu, kỳ phiếu, công trái… Xét về mặt hình thức giấy tờ có giá là một chứng chỉ được lập theo hình thức, trình tự luật định. Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài sản, giá của giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được pháp luật bảo vệ. Giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể chuyển nhượng với điều kiện chuyển nhượng tòan bộ một lần, việc chuyển nhượng một phần giấy tờ có giá là vô hiệu. Ngoài ra, giấy tờ có giá có tính thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính rủi ro. Ngoài ra còn có các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng ký xe máy,… không phải là giấy tờ có giá. Những loại giấy tờ này chỉ được coi là một vật thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó. 

Nhưng nhóm tôi cho rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở là tài sản. Bởi lẽ, dựa trên khái niệm tài sản theo Điều 105 BLDS 2015, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không là giấy tờ có giá, tuy nhiên có thể xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vật bởi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới một hình thức vật chất nhất định, thậm có hình dáng cụ thể (là một tờ giấy) nằm trong khả năng chiếm hữu của con người (có thể nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), có giá trị sử dụng (dùng để chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp đối với người sử dụng đất). Việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tham gia trao đổi mua bán không làm mất đi bản chất tài sản của nó. Thực tế vẫn có một số loại tài sản nhà nước cấm lưu thông như: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao…; Thứ hai, việc coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không là tài sản nó dẫn tới nhiều hệ quả không giải thích được về mặt lý luận và thực tế. Xuất phát từ những chế định về kiện đòi tài sản và thực tiễn cho thấy, các loại giấy tờ này có một ý nghĩa rất quan trọng Đồng thời nhận thức này làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người sử dụng sạp. Cụ thể, theo quy định của pháp luật hiện hành quyền sở hữu và quyền định đoạt có thể thực hiện trên các đối tượng là tài sản. Do đó việc coi Giấy chứng nhận sạp không là tài sản đã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất đối với loại giấy tờ này. 

Qua những luận điểm đó, nhóm tôi cho rằng hướng giải quyết của Tòa án vẫn chưa phù hợp và khách quan.

Câu 1.6: Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm cố? Trả lời:

- Tại đoạn Xét thấy của quyết định số 2 đã cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm cố: “Ngày 30/08/1995 vợ chồng ông Võ Văn Ôn và Lê Thị Xanh cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa thuận việc thục đất. Hai bên có lập “Giấy thục đất làm ruộng” với nội dung giống như việc cầm cố tài sản. Theo lời khai của nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận là cầm cố đất (BL số 08, 09, 10, 10, 19, 20)” Câu 1.7: Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không? Nêu cơ sở văn bản khi trả lời? Trả lời: Đến Luật Đất đai 2003 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Luật Đất đai 2003) thì người sử dụng đất có “Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất”. Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất”. Tuy Luật Đất đai 2003 và Luật Đất đai năm 2013 không quy định về quyền cầm cố quyền sử dụng đất của người sử dụng đất nhưng cũng không có quy định cấm cầm cố quyền sử dụng đất. Theo quy định của BLDS 2015 thì bất động sản bao gồm: (1) Đất đai; (2) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; (3) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; (4) Tài sản khác theo quy định của pháp luật. Và BLDS 2015 cũng quy định đất đai là một trong những tài sản công thuộc sở hữu toàn dân (Điều 197); Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại diện, thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân; Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân (Điều 198). Vì vậy, cũng có ý kiến băn khoăn là Điều 309 BLDS 2015 đưa ra định nghĩa về cầm cố tài sản trong đó có nội dung bên cầm cố giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên nhận cầm cố, nếu vậy quyền sử dụng đất sẽ không được cầm cố. Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng: –Với quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” và Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Mặc dù BLDS 2015 không quy định quyền sử dụng đất là bất động sản nhưng trong Luật Kinh doanh bất động sản đã có nhiều điều khoản quy định cho thấy quyền sử dụng đất là bất động sản. – Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự được quy định trong BLDS 2015 là các bên tham gia quan hệ xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. Có thể thấy, đây là điểm khác biệt có ý nghĩa vô cùng to lớn của BLDS 2015 so với BLDS 1995 và BLDS 2005. – Vì quyền sử dụng đất được luật thừa nhận là quyền tài sản, là bất động sản nên quyền sử dụng đất là tài sản t...


Similar Free PDFs