Midterm 5 14 September 2019, questions and answers PDF

Title Midterm 5 14 September 2019, questions and answers
Course Vietnamese civil law
Institution Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 17
File Size 236 KB
File Type PDF
Total Downloads 11
Total Views 253

Summary

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA: TÀISẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢNGiáo viên: ThS. Nguyễn Tấn Hoàng HảiHọ và tên: Nguyễn Đức MạnhLớp: QTL44AMSSV: 1953401020112MỤC LỤCBài 1: Khái niệm tài sản1 Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa một vài giấy tờ có giá.......................


Description

1.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài). ............................................................................................................tr.5 1.5 Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao? ....................................tr.6 1.6 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà................tr.7 1.7 Bitcoin là gì?.............................................................................................tr.7 1.8 Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?........tr.8 1.9 Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu pháp luật mà anh/chị biết?...............................................................................................tr.8 1.10 Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam......................................................tr.9 1.11 Quyền tài sản là gì?..................................................................................tr.9 1.12 Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản không?........................................................................................tr.9 1.13 Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?........................................................tr.9 1.14 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)?...................................................................................................tr.10

2

Bài 2: Căn cứ xác lập quyền sở hữu 2.1 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?...........................................................tr.10 2.2 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?....................................................tr.11 2.3 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?....................................................tr.12 2.4 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?....................................................tr.12 2.5 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?............................................................................tr.13 2.6 Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?..................................................................................................................tr.14

Bài 3: Chuyển rủi ro đối với tài sản 3.1 Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời......................................................................................................tr.15 3.2 Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.....................................................................................................................tr.15 3.3 Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời........................................................................................tr.15

3

Bài 1: Khái niệm tài sản 1.1 Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa một vài giấy tờ có giá. -Giấy tờ có giá là một loại tài sản trong giao dịch dân sự. Theo Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010; Khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TTNHNN và Khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác". -Một số ví dụ về giấy tờ có giá: +Séc: là giấy tờ có giá do người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán cho người thụ hưởng; +Tín phiếu: là giấy tờ có giá ngắn hạn, trong đó xác nhận món nợ phải thanh toán giữa chủ thể phát hành tín phiếu với người sở hữu tín phiếu vào ngày đáo hạn; +Chứng chỉ quỹ: là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng... 1.2 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án dố 39 có cho câu trả lời không? Trong bài viết “Các loại tài sản trong Luật dân sự Việt Nam”, tác giả Nguyễn Minh Oanh viết rằng: “Cần lưu ý là các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng ký ô tô, sổ tiết kiệm... không phải là giấy tờ có giá. Nếu cần phải xem xét thì nó chỉ đơn thuần được coi là một vật và thuộc sở hữu của người đứng tên giấy tờ đó”. Vì vậy, trong thực tiễn xét xử “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không là tài sản có giá. Trong quyết định phúc thẩm số 06/2017/QĐ-PT ngày 11 tháng 7 năm 2017 , vụ việc “đòi lại tài sản là giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất” có đoạn: “Theo Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015...Điều 115 Bộ luật dân sự 2015...Căn cứ khoản 16 Điều 4

3 Luật đất đai năm 2013...Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá”. Trong Bản án số 39/2018/DSST ngày 28 tháng 8 năm 2018 vụ việc “đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” có đoạn: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng cho đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự”. Như vậy, cả hai văn bản trên đều ghi nhận “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” chỉ là văn bằng chứng quyền, chứa đựng thông tin về Quyền sở hữu... Tuy nhiên Quyết định số 06 thì ghi rất rõ “không thể xem là loại giấy tờ có giá” còn Bản án số 39 tuy ghi nhận chỉ “là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất” nhưng lại không trả lời cho câu hỏi “đây có phải là loại giấy tờ có giá hay không”. 1.3 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định trên và Bản án số 39 có cho câu trả lời không? Vì sao? Trong thực tiễn xét xử “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không là tài sản. Theo tòa án, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản khác không phải là tài sản: -Trong Quyết định số 06 cho rằng “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá”. Như vậy, tại quyết định này cho câu trả lời rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà không phải là tài sản; -Trong Bản án số 39 thì lại không chỉ ra rằng đây có phải là tài sản hay không mà tòa lập luận rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất “hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự”. 1.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài).

5

Trong Quyết định số 06, tòa án dựa trên cơ sở phân tích các quy định của một số văn bản pháp luật, thấy giấy chứng nhận quyền sở hữu đất không nằm trong danh mục được liệt kê là loại giấy tờ có giá thì đáng ra kết luận phải là “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá”. Nhưng tòa án lại vội vàng đưa ra kết luận “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản và không phải là giấy tờ có giá”. Kết luận này là thiếu logic và đã dẫn đến một điều đó là đồng nhất hai khái niệm “tài sản” và “giấy tờ có giá”. Cụ thể trong Quyết định số 06/2017/QĐ-PT về vụ án “đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” tòa án lập luận :”Theo điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy dịnh về tài sản như sau: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”...giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá”. Từ việc đưa ra các lập luận để cho rằng đây không phải là loại giấy tờ có giá, cũng như không phải là “quyền tài sản khác” theo điều 115 Bộ luật dân sự 2015 mà tòa trích dẫn thì tòa đã khẳng định ngay đây không phải là tài sản. Trong khi đó, tại điều 105 mà tòa đã trích dẫn, tuy không thể hiện bằng ngôn ngữ nhưng tòa án đang tiếp cận ở góc độ phủ nhận các dạng tồn tại khác của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (chẳng hạn như là vật). Và cũng ở quyết định trên, không có một đoạn nào lập luận rằng đây không phải là vật. Trong bài viết “Vai trò của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, tác giả Đỗ Thành Công đã coi “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là tài sản. Theo đó, tác giả viết :”Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá, tuy nhiên hoàn toàn có thể xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vật. Việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể tham gia vào giao dịch trao đổi mua bán không làm mất đi bản chất tài sản của nó…” Đây là một việc hết sức tai hại, bởi lẽ nếu không đòi lại được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ người khác, người chiếm hữu có thể tạo ra những điều kiện bất lợi cho chủ sử dụng đất, gây ra những hậu quả tranh chấp không đáng có sau này, thậm chí là chuyển nhượng nhà đất của người khác. 1.5 Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao? Theo Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 thì tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Vì đây không phải là tiền, không nằm trong danh mục các loại giấy tờ có giá, không phải là quyền tài sản thì ta vẫn có thể xem nó là vật. Điều này là hợp lý bởi lẽ giấy chứng nhận quyền sở hữu đất tồn tại dưới một hình thức vật chất nhất định, thậm chí có hình dạng cụ thể (là tờ giấy). Nằm trong khả năng chiếm hữu của con người (có thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).

6

Tuy nhiên, trong thực tế như Bản án số 39, nếu bị mất các loại giấy tờ liên quan về quyền sở hữu thì phải làm đơn trình báo lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm các thủ tục cấp lại. Nếu xem đây là tài sản và với các thủ tục như trên đã có thể cấp lại tài sản bị mất thì hoàn toàn vô lý. Như vậy, nếu áp dụng Bộ luật dân sự 2015 thì khó có thể khẳng định ngay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản hay không mà còn phải căn cứ vào góc độ thực tiễn đời sống với từng trường hợp cụ thể để đưa ra những phán quyết đúng đắn trong xét xử, phù hợp với bản chất từng sự việc. 1.6 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là loại giấy tờ có ý nghĩa quan trọng, là thể hiện sự công nhận của nhà nước đối với người sử dụng đất hợp pháp. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng là một trong những căn cứ cho phép xác định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất. Trong Bản án số 39, tuy rằng Tòa án đã không xác định rõ rằng giấy chứng nhận sở hữu nhà giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có là giấy tờ có giá hay là tài sản không. Tòa án nhận định :”Bộ luật tố tụng dân sự không quy định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp “Đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng”. Tuy nhiên về nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ án dân sự vì lí do chưa có điều luật áp dụng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự. Căn cứ Khoản 2 Điều 4; Khoản 14 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định yêu cầu đòi trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B và bà H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”. Qua hướng giải quyết này, Tòa án đã bảo vệ được một phần quyền lợi của chủ sở hữu đất, sở hữu nhà ở. 1.7 Bitcoin là gì? Bitcoin hay BTC là đồng tiền điện tử đầu tiên trên thế giới được phát minh bởi Satoshi Nakamoto vào năm 2009. Cách thức hoạt động của bitcoin khác hoàn toàn so với các loại tiền tệ bình thường, sử dụng giao thức ngang hàng (peer-to-peer) cho tất cả các giao dịch và chính điều đó đã làm cho Bitcoin loại bỏ bước trung gian trong quá trình thực hiện giao dịch.

7

Điều này có nghĩa là giao dịch sẽ được thực hiện trực tiếp từ người gửi đến người nhận với phí giao dịch cực kỳ thấp (gần như bằng 0) mà không phải qua bất cứ tổ chức hay cá nhân trung gian nào. Không có bất cứ cá nhân, tổ chức nào quản lý các giao dịch BTC. 1.8 Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không? Theo Tòa án, Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam: Tòa trích dẫn Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về tài sản :”Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Bên cạnh đó, tòa chỉ ra rằng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ cũng như có những chế tài sử phạt theo Nghị định 96/2014/NĐ-CP về “việc phát hành , cung ứng và sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự. Theo Điều 3 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Hàng hóa bao gồm: tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai”. Như vậy, với những nhận định trên tuy không thể hiện bằng ngôn ngữ nhưng tòa cũng ngầm khẳng định rằng Bitcoin không phải là tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam 1.9 Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu pháp luật mà anh/chị biết? Hiện tại, có 99 quốc gia trong tổng số 246 quốc gia (chiếm khoảng 40%) là ủng hộ và không hạn chế đáng kể về pháp luật với Bitcoin và coi nó như một loại tài sản. Tại nơi ra đời của Bitcoin - Nhật Bản - bắt đầu từ ngày 1/4/2017, Bitcoin được coi là tài sản và là một phương thức thanh toán hợp pháp, được quản lý bởi Cơ quan Dịch vụ Tài Chính Nhật Bản (JFSA). Một số tổ chức lớn tại đây đã công nhận Bitcoin như một loại tiền tệ. Các luật trong việc giao dịch tại ngân hàng vẫn chưa thay đổi, nhưng chúng cũng đang được xem xét để làm cho Bitcoin thậm chí còn có thể sử dụng được trong đời sống hằng ngày. 1.10 Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam. Quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam khi không coi Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt Nam là hợp lý. Do sự phát triển quá nhanh và khó kiểm soát của tiền ảo, pháp luật chưa có quy định cụ thể nào về việc sử dụng đồng tiền Bitcoin, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng không chấp nhận loại tiền ảo như một đồng tiền sử dụng. 8

Với cơ chế hoạt động không có sự kiểm soát, Bitcoin nằm ngoài thẩm quyền quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Khi bạn mở một tài khoản Bitcoin, bạn không cần phải khai báo bạn là ai, đến từ đâu, làm gì và thu nhập bao nhiêu hàng tháng. Chỉ cần một vài cú click chuột để tạo một địa chỉ ví trên hệ thống (wallet address), địa chỉ đó thường là một dãy ký tự xếp ngẫu nhiên tương tự như số tài khoản ngân hàng của bạn, và bạn có thể gửi nó cho bất kỳ ai để bảo họ chuyển tiền vào đó cho bạn. Vì thế những giao dịch ngầm chúng ta khó kiểm soát được cho những hoạt động của tội phạm rửa tiền, trốn thuế, chuyển tiền bất hợp pháp, thanh toán, tài trợ chủ quyền quốc gia về phát hành tiền tệ sẽ bị xâm phạm, ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, pháp luận nước ta đã thực hiện những chính sách quản lý riêng. Tuy nhiên, mức độ phủ song của Bitcoin hiện tại vẫn còn những vấn đề Nhà nước chưa kiểm soát được. Hy vọng trong thời gian sớm nhất chúng ta sẽ có một cái nhìn cụ thể về loại hình này. 1.11 Quyền tài sản là gì? Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận:“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. 1.12 Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản không? Hiện nay, chưa có bất kì quy định nào khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản. Tuy nhiên vẫn có trường hợp ngoại lệ. Theo Án lệ số 31/2020/AL thì ”Quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 05 tháng 07 năm 1994 của Chính phủ là quyền tài sản” 1.13 Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản? Trong phần nhận định của tòa đã cho ta thấy quyền thuê, quyền mua được giải quyết theo hướng là tài sản: “[1]... Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên...Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê:, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T.”

9

1.14 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)? Theo em Quyết định của Tòa (quyền thuê, quyền mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản) như vậy là thỏa đáng. Bởi nếu không xác định như vậy thì khi còn sống, nếu như cụ T không làm thủ tục mua hóa giá nhà theo quy định của pháp luật thì nghiễm nhiên căn nhà ấy vẫn sẽ thuộc quản lý của Nhà nước và Nhà nước sẽ xem xét cho thuê, bán nhà theo Nghị định số 61/CP. Nếu như vậy sẽ gây bất lợi cho bà H và các đương sự được hưởng quyền liên quan khi bà L đã mua căn nhà trước với chế độ liệt sĩ của cụ T và ngôi nhà sẽ thành tài sản riêng của vợ chồng bà L. Tuy nhiên, khi Tòa xem xét quyền mua, quyền thuê nhà hóa giá của cụ T là tài sản thì lúc này quyền mua, quyền thuê đó sẽ được giao cho các thừa kế của cụ T, đảm bảo được công bằng cho các thừa kế.

Bài 2: Căn cứ xác lập quyền sở hữu 2.1 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án? Trong Quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính...


Similar Free PDFs