quan điểm của MácLenin về con người và bản chất con người. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn PDF

Title quan điểm của MácLenin về con người và bản chất con người. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Course Triết học
Institution Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 12
File Size 215.2 KB
File Type PDF
Total Downloads 85
Total Views 653

Summary

ĐẠI HỌC UEHTRƯỜNG KINH DOANHKHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊTIỂU LUẬNPHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNINVỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI.Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN ĐIỂM TRÊNGiảng viên hướng dẫn: TS. ĐỖ KIÊN TRUNGSinh viên thực hiện: NGUYỄN VÂN ANHMã số sinh viên: 31211023317Lớp: KM002 -...


Description

ĐẠI HỌC UEH TRƯỜNG KINH DOANH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN ĐIỂM TRÊN Giảng viên hướng dẫn: TS. ĐỖ KIÊN TRUNG Sinh viên thực hiện: NGUYỄN VÂN ANH Mã số sinh viên: 31211023317 Lớp: KM002 - K47 Lớp học phần: 21C1PHI51002345 TP Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 12 năm 2021

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU Vấn đề nghiên cứu về con người từ trước đến nay luôn là một chủ đề trung tâm của Triết học từ thời cổ đại cho đến thời hiện đại ngày nay. Triết học Mác – Lênin ra đời đã đóng vai trò to lớn trong việc giải quyết những vấn đề xung quanh con người. Triết học đã khẳng định rằng con người có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng đối với toàn thế giới. Đặc biệt, trong thời đại đổi mới, con người trở thành yếu tố tiên quyết, đóng vai trò to lớn trong sự thành bại của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người và bản chất con người đã được Đảng và Nhà nước vận dụng vào thực tiễn để phát triển nguồn nhân lực tại Việt Nam.

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI 1.1. Khái niệm con người Con người là một thực thể tự nhiên – xã hội. a, Con người là một thực thể tự nhiên Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên phải là một trong những phương tiện cơ bản của con người. Cũng do vậy, việc nghiên cứu khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học quan trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình trong mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức là lịch sử nhân loại. Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ. Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài. Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời, giới tự nhiên cũng “là thân thể vô cơ của con người”. Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội loài người, nó là mội trường trao đổi vật chất giữa con người và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động

trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. b, Con người là một thực thể xã hội Mặc dù con người sinh ra từ sự tiến hóa tự nhiên song khác với mọi động vật khác, con người có đặc tính xã hội. Mỗi con người với tư cách là “người” chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại. Bản tính xã hội của con người được phân tích từ hai giác độ. Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật để tiến hóa và phát triển thành người. Nhờ có lao động sản xuất mà con người về mặt tự nhiên có thể trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể có lý tính, có “ bản năng xã hội”. Bên cạnh yếu tố cơ bản là lao động sản xuất, trong hoạt động con người lẫn nhau còn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Tính xã hội của con người chỉ có trong “ xã hội loài người”, con người không thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật. Con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người. Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người không tách rời thành những phương diện biệt lập mà tồn tại trong tính thống nhất của nó, quy luật lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. 1.2.

Bản chất của con người

Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác khẳng định: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Chính bản tính xã hội của con người là phương tiện bản chất nhất của con người với tư cách “người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Như vậy, có thể hiểu con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội. Bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó, chính là “tổng

hòa của các quan hệ xã hội”, bởi vì xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,... Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, nhưng không phải sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng. Các mối quan hệ xã hội có nhiều loại: Quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất hoặc tinh thần, trực tiếp hoặc gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên, bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế và phi kinh tế, v.v.. Mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau. Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành lên bản chất con người. Cũng vì thế, sự giải phóng bản chất con người cần phải là hướng vào sự giải phóng những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của nó, thông qua đó mà có thể phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển , các yếu tố lịch sử và xã hội luôn song hành cùng nhau, tác động đến các quan hệ trong đời sống xã hội, từ đó hình thành nên bản chất của con người. Các quan hệ xã hội thay đổi dù ít dù nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con người cũng sẽ thay đổi theo. Và những yếu tố lịch sử, xã hội khác nhau sẽ định hình nên bản chất của mỗi con người là khác nhau. Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Bởi, con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử. Với tư cách là thực thể xã hội, con người thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biên giới tự nhiên từ đó mà sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó; đồng thời, bản chất con người cũng được hình thành. 2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. Về lý luận Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người và bản chất con người là cơ sở phương pháp luận cho mọi hoạt động của con người. Trong nhận thức, khi đánh giá con người cần phải xem xét đến cả hai phương diện bản tính tự nhiên lẫn bản tính xã hội, song phải coi trọng hơn việc xem xét con người từ phương diện bản tính xã hội. Nhân cách con người là sự tổng hòa của các giá trị. Ở đó, tri thức và đạo đức luôn đi cùng với nhau, phát triển cùng nhau tạo nên nhân cách của mỗi con người. Đặc biệt, yếu tố đạo đức là yếu tố tiên quyết cần phải được chú trọng. Như Bác Hồ đã từng dạy: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Do đó, đầu tư vào giáo dục là biện pháp hiệu quả để phát triển con người một cách toàn diện.

Bên cạnh đó, trong cuộc sống, con người không chỉ phải biết phát huy vai trò chủ thể tích cực sáng tạo mà còn phải có ý thức tự giác vượt qua khỏi tác động tiêu cực từ hoàn cảnh lịch sử. Vì bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, nên mỗi một cái tôi nhân cách đều mang dấu ấn của nhân cách xã hội, điều kiện sống, truyền thống lịch sử, văn hóa cũng như trình độ và tính chất phát triển của xã hội đương thời. Do đó, mỗi cá nhân mang cái tôi nhân cách như là một hình ảnh thu nhỏ của nhân cách xã hội. Sự hình thành và phát triển nhân cách chịu sự quy định bởi điều kiện kinh tế xã hội. Điều kiện kinh tế xã hội như thế nào sẽ quy định nhân cách con người trong xã hội đó như thế ấy. Và sự khác nhau trong mối quan hệ về kinh tế xã hội cũng sẽ tạo nên những con người khác nhau. Tương tự như vậy, sự hình thành và phát triển của nhân cách cũng bị quy định bởi yếu tố văn hóa xã hội. Văn hóa xã hội là tổng hòa các văn hóa cá nhân, nó không đơn thuần chỉ là sự tổng hợp đơn giản, mà đó là kết tinh những tinh hoa qua nhiều thời đại, nhiều thế hệ đã qua. Mỗi cá nhân từ khi sinh ra đã được tiếp nhận một hệ các giá trị, chuẩn mực văn hóa của xã hội. Thông qua đó, cái chung của nhân cách xã hội chi phối lên nhân cách cá nhân, biểu hiện thành thế giới quan và nhân sinh quan, thành tư tưởng và đạo đức, tình cảm và niềm tin, thành hành vi trong hành động và ứng xử của con người trong cộng đồng xã hội. Mỗi xã hội trong những thời đại khác nhau thì có những quy định dựa vào yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật, tri thức, đạo đức,.. khác nhau, từ đó tạo nên những nhân cách con người đa dạng. Nhân cách của mỗi cá nhân đại diện cho hiện thực môi trường xã hội của cá nhân đó. Vì vậy, để có thể xây dựng, phát triển được những con người tốt đẹp, hoàn thiện cần chú trọng việc xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp với những quan hệ xã hội tốt đẹp. Đồng thời, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải luôn chú ý giải quyết đúng đắn mối quan hệ xã hội – cá nhân, cân bằng giữa cá nhân và xã hội, tránh khuynh hướng đề cao quá mức cá nhân hoặc xã hội. 2.2. Về thực tiễn Đảng ta đã quán triệt và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người và bản chất con người cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong lãnh đạo đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người bao hàm nhiều nội dung khác nhau, trong đó có các nội dung cơ bản là: tư tưởng về giải phóng dân tộc, tư tưởng về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, tư tưởng về phát triển con người toàn diện. Giải phóng nhân dân lao động gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, bởi ở Việt Nam quyền lợi của nhân dân lao động thống nhất với quyền lợi của giai cấp và dân tộc. Công cuộc giải phóng chỉ có thể thắng lợi và thắng lợi hoàn toàn, triệt để bằng

việc thực hiện cách mạng vô sản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Do bối cảnh lịch sử của quốc gia dân tộc, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tư tưởng giành độc lập, tự do cho quốc gia dân tộc. Độc lập dân tộc chỉ là bước khởi đầu để đưa nhân dân tới với cuộc sống tự do hạnh phúc, bởi nếu đất nước độc lập mà nhân dân không tự do, không ấm no hạnh phúc thì độc lập đó cũng chẳng có ý nghĩa. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta cũng khẳng định phát huy nhân tố con người Việt Nam, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Việt Nam là quốc gia có nguồn lao động trẻ, dồi dào nhưng trình độ lao động chưa cao, tay nghề còn yếu. Vì vậy, cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục đạo đức, chú trọng sức khỏe, giáo dục thẩm mĩ và chất lượng cuộc sống, có như vậy mới tạo ra một con người toàn diện thúc đẩy sự phát triển kinh tế một cách nhanh mạnh - bền vững. Đảng và Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách đãi ngộ hợp lí để thu hút phát triển nguồn nhân lực trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, tránh hiện tượng “chảy máu chất xám”. Chẳng hạn như bồi dưỡng nhân tài, đào tạo tay nghề cho người lao động,...từ đó nâng cao chất lượng nguồn lao động của đất nước. Cần chú trọng, tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với việc phát triển nguồn nhân lực. Trên cơ sở nền tảng những quan điểm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, mỗi cơ quan, mỗi đơn vị và địa phương căn cứ vào tình hình cụ thể để hỗ trợ phần nào điều kiện vật chất, hoặc tạo điều kiện thuận lợi về môi trường công tác cho phát triển nguồn nhân lực được phát huy thế mạnh, sở trường. Vấn đề đặt ra là, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong việc điều phối kết hợp xây dựng, ban hành quy chế sử dụng, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là các phòng, ban, sở nội vụ ở các cơ quan, đơn vị địa phương; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh nơi làm việc; duy trì và thực hiện nghiêm túc các chế độ, quy định, nề nếp sinh hoạt ở mỗi cơ quan, đơn vị và địa phương; quan tâm đến đời sống của cán bộ, công nhân thuộc quyền quản lý. Thực hiện tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với thực tiễn nền kinh tế - xã hội của đất nước. Bởi vì con người được định hình bởi những yếu tố thuộc về xã hội, cho nên để con người phát triển toàn diện, cần tạo ra một môi trường

kích thích người lao động trong quá trình làm việc. Xây dựng môi trường làm việc lành mạnh, phát triển, có tính đột phá và đổi mới. Đảng và nhà nước ta cần xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao gắn với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Mỗi sinh viên UEH là một nhân tố quan trọng, góp phần tạo nên nguồn nhân lực chung của UEH trong quá trình cung cấp nguồn nhân lực cho các tỉnh phía Nam, cho đất nước và thị trường quốc tế. UEH là môi trường tuyệt vời để phát triển toàn diện các kĩ năng về cả tri thức, đạo đức, thể lực, kĩ năng,...đào tạo con người trở thành công dân toàn cầu. Trên cương vị là một sinh viên UEH, mỗi sinh viên cần cố gắng học tập và rèn luyện các kĩ năng, kiến thức, hoàn thành tốt những yêu cầu nhà trường đặt ra, đồng thời, phải biết nắm bắt cơ hội để phát triển bản thân ở nhiều khía cạnh khác nhau, từ đó hoàn thiện bản thân và đảm bảo trình độ đầu ra chuẩn quốc tế, đóng góp cho nước nhà giàu mạnh.

KẾT LUẬN Như vậy, ta có thể thấy quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và bản chất của con người ra đời đã có ý nghĩa và vai trò rất lớn trong quá trình nghiên cứu lịch sử con người và quá trình phát triển của con người ở hiện tại và trong tương lai.. Đến nay luận điểm về bản chất con người này vẫn còn giữ nguyên được giá trị lý luận và giá trị thực tiễn, đó là những bài học vô cùng quý báu trong công cuộc phát huy nguồn nhân lực là con người để đáp ứng qua trình phát triển bền vững của đất nước. Việc đưa ra quan điểm triết học về con người đã trở thành nền tảng cho việc phát huy các vai trò của con người trong đời sống, từ quan điểm đó đã đưa ra cho chúng ta những hướng đi đúng đắn về việc xây dựngvà phát triển con người để đưa thế giới đi lên một tầm cao mới vĩ đại hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1, Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu phục vụ giảng dạy, Hà Nội, 8/2019.(Chương 3 – chủ nghĩa duy vật lịch sử) 2, Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn học Triết học Mác-Lênin, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh...


Similar Free PDFs