17-Đỗ Hương Giang-2114510018-TRI114.8 PDF

Title 17-Đỗ Hương Giang-2114510018-TRI114.8
Author Giang Đỗ Hương
Course Hướng dẫn viết tiểu luận
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 13
File Size 261.3 KB
File Type PDF
Total Downloads 283
Total Views 649

Summary

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘIVIỆN KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾTIỂU LUẬNĐỀ TÀI:QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚITRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤTVÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚICỦA NƯỚC TA HIỆN NAYSinh viên thực hiện: Đỗ Hương GiangLớp tín chỉ: TRI114.MSV: 2114510018STT: 17Giáo vi...


Description

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI VIỆN KINH TẾ & KINH DOANH QUC TẾ

TIỂU LUẬN Đ TI: QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY Sinh viên thực hiện: Đỗ Hương Giang Lp tín chỉ: TRI114.8 MSV: 2114510018 STT: 17 Giáo viên hưng dẫn: ThS.Nguyễn Thị Tùng Lâm

Hà Nội, 11/2021

1

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………………….…………...3 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN……………………………………………………...……………….................…..4 I.Đôi nét về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất………………………….…………..4 I.1.Lực lượng sản xuất……………………………………………….……………………4 I.2.Quan hệ sản xuất……………………………………………….…………….………...5 II. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất…………………………………………………………….……………. …………….5CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUY LUẬT VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY…………………………………………………………………………...7 II.1 Những sai lầm khi vận dụng quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất ở nưc ta trưc Đổi mi……………………………………………………………………………...7 II.2 Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn hiện nay ở nưc ta………………………………………………………………………….………….9 II.3 Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mi đất nưc…………………………………………………………………………….………..10 KẾT LUẬN……...…………………………………...……………………………..…...12 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………...…………………………………13

2

LỜI NÓI ĐẦU Xã hội loài người tồn tại và phát triển trong quá trình lịch sử lâu dài , trải qua các hình thái kinh tế – xã hội và mỗi hình thái luôn gắn liền vi quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Bên cạnh đó quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần, qua đó ta thấy được tầm quan trọng to ln của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, trong sự tồn tại và phát triển của xã hội bởi vì quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất chính là kết quả của toàn bộ quá trình lao động sản xuất của cải,vật chất. Không vượt khỏi quy luật khách quan , sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của nưc ta cũng là nền tảng , cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của đất nưc , trong đó việc làm rõ sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cùng vi ảnh hưởng của nó ti quá trình phát triển kinh tế đất nưc là đòi hỏi cấp thiết cả về mặt lý luận , thực tiễn quản lý đất nưc cũng như công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia. Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có , khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nưc và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi vi xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đối vi những vấn đề xã hội chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp vi lực lượng sản xuất là vấn đề cần được quan tâm để tìm ra được những biện pháp thích hợp . Chính vì lý do đấy nên em chọn đề tài “Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay”.

3

CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất vi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội. I. Đôi nét về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng vi nhau, tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức là tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Như vậy lực lượng sản xuất là những nhân tố có tính sáng tạo và tính sáng tạo đó có tính lịch sử. Do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục gii tự nhiên của con người: trình độ thủ công của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục gii tự nhiên thấp hơn rất nhiều so vi lực lượng sản xuất ở trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao. Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, “người lao động” là nhân tố giữ vai trò quyết định bởi vì suy đến cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động. Mặt khác trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục gii tự nhiên. Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản tất yếu, tạo thành nội dung vật chất của quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất hiện thực nào có thể diễn ra nếu thiếu một trong hai nhân tố là người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng, chỉ có lực lượng sản xuất vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực được, mà còn cần phải có những quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức xã hội của quá trình sản xuất ấy. Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người vi người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối vi tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. 4

Quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người vi con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, trong quá trình sản xuất con người phải có những quan hệ, con người không thể tách khỏi cộng đồng. Nhìn tổng thể quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ sở hữu đối vi vi tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người đối vi tư liệu sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ giữa người vi người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động quan hệ giữa người quản lý vi công nhân. Quan hệ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ vi nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người lao động và đóng góp ngày càng nhiều cho nhà nưc xã hội chủ nghĩa. Thực tế lịch sử cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều mang một mục đích kinh tế là nhằm bảo đảm cho lực lượng sản xuất có điều kiện tiếp tục phát triển thuận lợi và đời sống vật chất của con người cũng được cải thiện. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chúng không đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế - xã hội mi.

II. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là “hình thức xã hội” của quá trình đó. Trong đời sống hiện thực, không thể có sự kết hợp các nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên lại có thể diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định. Ngược lại, cũng không có quá trình sản xuất nào có thể diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ vi những quan hệ sản xuất không có nội dung vật chất của nó. Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất vi nhau. Đây là yêu 5

cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng vi thực trạng phát triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp vi thực trạng đó trên cả ba phương diện : sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức – quản lý và phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mi có thể được duy trì, khai thác – sử dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai thác – sử dụng và phát triển trong hình thức kinh tế - xã hội nhất định. Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất, còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất kỹ thuật của quá trình đó. Tuy nhiên quan hệ sản xuất, vi tư cách là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất, nó luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiều hưng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất vi thực trạng và nhu cầu khách quan của sự vận động phát triển lực lượng sản xuất.Nếu “phù hợp” sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại “không phù hợp” sẽ có tác dụng tiêu cực. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế - xã hội xác định, lực lượng sản xuất của xã hội khi được bảo tồn, không ngừng khai thác sử dụng và phát triển trong quá trình sản xuất và tái sản xuất một của xã hội. Tính ổn định phù hợp của quan hệ sản xuất đối vi lực lượng sản xuất càng cao sao thì lực lượng sản xuất càng có khả năng phát triển nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của những quan hệ sản xuất từ trưc đến nay đóng vai trò là hình thức kinh tế - xã hội cho sự phát triển của nó. Những quan hệ sản xuất này, từ chỗ là hình thức phù hợp và cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất đã trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển đó, nó đã tạo ra mâu thuẫn ăn giữa những lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất từ đó xuất hiện nhu cầu khách quan phải thiết lập lại mối quan hệ hệ thống nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp vi nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn biện chứng ứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác đã chỉ ra rằng: “Ti một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội khi mâu thuẫn vi những quan hệ sản xuất hiện có…, trong đó đó từ trưc đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất những 6

quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội khi mà những quan hệ sản xuất cũ của xã hội được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mi, phù hợp vi nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển tiếp tục phát huy tác dụng tích cực, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mi. Như vậy, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật vi hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ sự thống nhất đến những khác biệt và đối lập xung đột, từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải được giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp vi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này cũng tuân theo quy luật “từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại”, quy luật “phủ định của phủ định” khiến cho quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội vừa diễn ra vi tính chất một tiệm tiến, tuần tự lại vừa có tính nhảy vọt vi những bưc đột biến, kế thừa và vượt qua của nó ở trình độ ngày càng cao hơn. Trong phạm vi phân tích sự phát triển xã hội, mâu thuẫn và sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp vi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động của quy luật này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối vi sự vận động phát triển của nền sản xuất vật chất và do đó là sự vận động phát triển của lịch sử nhân loại từ phương thức sản xuất thấp lên phương thức sản xuất cao hơn; nó cũng là cơ sở để giải thích một cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của toàn bộ các hiện tượng xã hội và các sự biến đổi trong đời sống chính trị văn hóa của các cộng đồng người trong lịch sử. CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUY LUẬT VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY II.1 Những sai lầm khi vận dụng quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất ở nước ta trước Đổi mới. Nưc ta sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nưc, thống nhất Tổ quốc 30/4/1975 đến trưc thời kỳ đổi mi 1986, thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Mặc dù đã huy động được sức người, sức của cho kháng chiến và kiến quốc, nhưng kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, hiệu quả thấp. Lúc đó chúng ta đã chủ quan muốn tạo ra một quan hệ sản xuất vượt trưc trình độ lực lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt, đưa đất 7

nưc lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh; mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kìm hãm sự phát triển của đất nưc. Sự nhận thức sai quy luật chứng tỏ sự lạc hậu về nhận thức tư duy lý luận và vận dụng quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; thành kiến không đúng những quy luật của sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị; coi nhẹ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Một số sai lầm phổ biến trong nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp vi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chúng ta đã mắc phải là: - Chưa nhận thức, chưa hiểu đúng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất vi quan hệ sản xuất, tách rời quan hệ sản xuất vi lực lượng sản xuất, cường điệu quan hệ sản xuất mà coi nhẹ lực lượng sản xuất, việc phát triển,và việc giải phóng lực lượng sản xuất, muốn tạo ra quan hệ sản xuất đi trưc mở đường cho lực lượng sản xuất, muốn nhanh chóng thực hiện nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế của đất nưc còn rất lạc hậu, tàn dư của chiến tranh còn rất nặng nề. - Nhận thức quan hệ sản xuất không trong một chỉnh thể, cường điệu chế độ sở hữu, coi sở hữu tư nhân nằm ngoài bản chất của chủ nghĩa xã hội và cần phải nhanh chóng xóa bỏ; coi nhẹ quan hệ tổ chức - quản lý và phân phối; coi nhẹ động lực lợi ích cá nhân của người lao động, trong khi đời sống của nhân dân đang gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn - Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, coi nhẹ quy luật giá trị, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó tạo thành cơ chế kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Muốn tạo ra một quan hệ sản xuất nhất loạt như nhau trong những ngành sản xuất kinh tế khác nhau, những vùng miền, địa bàn khác nhau (vùng đồng bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên gii, hải đảo) vi những trình độ lực lượng sản xuất rất khác nhau, tức là cào bằng trong quan hệ sản xuất gây ra nhiều cản trở, khó khăn, nhất là trong quản lý kinh tế, xã hội. Những sai lầm trên đây chính là do nhận thức không đúng bản chất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ lực lượng sản xuất, những điều kiện tác động của nó, không tính đến điều kiện thực tiễn khi vận dụng, kết cục không tránh khỏi rơi vào thất bại. Nhận thức được vấn đề, tại Đại hội VI, Đảng ta đã phê phán bệnh chủ quan duy ý chí do vi phạm quy luật khách quan mà trưc hết và chủ yếu là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp vi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó Đại hội đã rút ra bài học rất quan trọng là “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, phải “làm cho quan hệ sản xuất phù hợp vi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Công cuộc đổi mi xét về thực chất chính là quay trở về vi quy luật, nhận thức đúng hiện thực khách quan vi những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp vi thực tiễn đất nưc và thời đại mi. 8

II.2 Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do quá cường điệu vai trò của quan hệ sản xuất do quan niệm không đúng về mối quan hệ giữa sở hữu và quan hệ khác, do quên mất điều cơ bản là nưc ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Đồng nhất chế độ công hữu vi chủ nghĩa xã hội lẫn lộn đồng nhất giữa hợp tác hoá và tập thể hoá. Không thấy rõ các bưc đi có tính qu y luật trên con đường tiến lên CNXH nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối vi nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là theo đường lối "đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trưc mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thiết lập chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể". Quan niệm cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trưc để tạo địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn vi những cái phân tích trên. Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất vi những hình thức kinh tế - xã hội xa lạ được áp đặt một cách chủ quan kinh tế thích hợp cần thiết cho lực lượng sản xuất mi nảy sinh và phát triển. Khắc phục những hiện tượng tiêu cực trên là cần thiết về mặt này trên thực tế chúng ta chưa làm hết nhiệm vụ mình phải làm. Phải giải quyết đúng đắn giữa mâu thuẫn lực lượng sản xuất vi quan hệ sản xuất từ đó khắc phục những khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế. Thiết lập quan hệ sản xuất mi vi những hình thức và bưc đi phù hợp vi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn luôn thúc đẩy sản xuất phát triển vi hiệu quả kinh tế cao. Trên cơ sở củng cố những đỉnh cao kinh tế trong tay nhà nưc cách mạng. Cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản và luôn bán tự do rộng rãi có lợi cho sự phát triển sản xuất. Các nhà báo của nưc ngoài phỏng vấn cố Tổng bí thư Lê Khả Phiêu rằng "vi một người có bằng cấp về quân sự nhưng không có bằng cấp về kinh tế ông có thể đưa nưc Việt Nam tiến lên không", trả lời phỏng vấn cố Tổng bí thư khẳng định rằng Việt Nam chúng tôi khác vi các nưc ở chỗ chúng tôi đào tạo một người lính thì người lính ấy phải có khả năng cầm súng và làm kinh tế rất giỏi, và ông còn khẳng định là không chấp nhận Việt Nam theo con đường chủ quan của tư bản, nhưng không phải triệt tiêu tư bản trên đất nưc Việt Nam và vẫn quan hệ vi chủ nghĩa tư bản trên cơ sở có lợi cho đôi bên và như vậy cho phép phát triển thành phần kinh tế tư bản là sáng suốt. Quan điểm từ đại hội VI cũng đã khẳng định không những khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cả thế mà phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nưc. Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nưc trong thời kỳ quá độ. Ở nưc ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng chính: lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nưc (thường gọi là quốc doanh, thuộc 9

thành phần kinh tế nhà nưc); lực lượng sản xuất ngoài qu...


Similar Free PDFs