Btldsl 3-NHOM3 - Thảo luận dân sự 1 PDF

Title Btldsl 3-NHOM3 - Thảo luận dân sự 1
Author Thanh Thảo Lê Trần
Course Luât Dân sự 1
Institution Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 14
File Size 282.6 KB
File Type PDF
Total Downloads 253
Total Views 709

Summary

Download Btldsl 3-NHOM3 - Thảo luận dân sự 1 PDF


Description

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT DÂN SỰ 

Bài thảo luận thứ ba : Tài sản và Quyền đối với tài sản Thành viên Nhóm 3

Năm học: 2021 – 2022

1

Tài sản và Quyền đối với tài sản Vấn đề 1 : Khái niệm tài sản Tóm tắt Quyết định số: 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa: Ngày 16/02/2017 ông Phan Hai khởi kiện yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 4/5/2017, TAND huyện Diên Khánh đưa ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của ông Hai. Sau đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện đã kháng nghị và ông Hai cũng kháng cáo Quyết định trên. Quyết định của TAND tỉnh Khánh Hòa là không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân với kháng cáo của nguyên đơn, đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện. Tóm tắt Bản án số: 39/2018/DS-ST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long: Vợ chồng ông B và bà H do sửa nhà nên làm mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nhà mình. Khi ông bà yêu cầu UBND cấp lại thì người của UBND lại thông báo là nhà bà thuộc diện tranh chấp vì giấy tờ nhà bà đang do bà T sở hữu. Vì vậy ông bà đã kiện bà T để lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phía bà T khai rằng ông bà B và H thế chấp giấy chứng nhận để vay tiền vì vậy không trả lại cho đến khi được trả 120 triệu nhưng lại không có gì để làm chứng. Tòa án đã ra quyết định chấp nhận yêu cầu của vợ chồng ông B và bà H, yêu cầu bà T trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng nguyên đơn. Tóm tắt Quyết định số: 05/2018/DS-GĐT ngày 10/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Bà H khởi kiện bà L về tranh chấp tài sản là căn nhà do ông T để lại. Ông T và cụ C có với nhau 3 người con. Năm 1976, cụ T chung sống với cụ T4 và được Quân Đội cấp cho căn nhà. Năm 1993, cụ T lập giấy ủy quyền cho bà L (con riêng cụ T4 Được trọn quyền giải quyết những việc liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với căn nhà, giấy ủy quyền có giá trị cả khi cụ còn sống và đã chết, ngoài ra cụ không lập di chúc thừa kế nào. Năm 1998 bà L có đơn xin mua hóa giá căn nhà thì bà H và ông T1 khiếu nại, trong đơn giải quyết khiếu nại thì cả 3 đã đồng ý cho bà L mua hóa giá căn nhà và sau khi trừ mọi chi phí thì sẽ giải quyết theo thỏa thuận. Nhưng bà L chỉ mua hóa giá nhà theo tiêu chuẩn con liệt sĩ vì bị bà H và ông T1 khiếu nại nhiều lần nên theo bà căn nhà đã là tài sản riêng của vợ chồng bà L. Vì vậy bà H khởi kiện bà L vì bà L không chia tài sản đúng theo yêu cầu. Quyết định tòa sơ thẩm là đồng ý với một phần khởi kiện của bà H, yêu cầu bà L giao lại số tiền thừa kế dựa trên giá trị ngôi nhà cho những người có quyền được hưởng thừa kế theo tỷ lệ tòa án quyết định và không chấp nhận quyền sở hữu căn nhà với bà L. Tòa phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo của bà L và không chấp nhận đơn 2

kháng cáo của bà H. Tòa đã quyết định công nhận quyền sở hữu căn nhà với bà L và không cần chia tài sản với những người khác. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị. Hội đồng thẩm phán đã quyết định hủy toàn bộ bản án và trả lại cho tòa sơ thẩm xét xử lại vì nhận thấy nhiều sai sót của tòa sơ thẩm lẫn phúc thẩm trong bản án 1.1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa về giấy tờ có giá. Hiện nay BLDS 2015 chưa định nghĩa cụ thể thế nào là giấy tờ có giá mà chỉ nêu giấy tờ có giá là một loại tài sản (theo Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015) Tuy nhiên, theo Điều 8 Khoản 6 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quy định cụ thể về giấy tờ có giá: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác.” Về các loại giấy tờ được xác định là giấy tờ có giá thì căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể điểm c khoản 2 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, giải đáp về nghiệp vụ được quy định tại Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21 tháng 09 năm 2011 có quy định các loại giấy tờ có giá. Ngoài những giấy tờ có trong quy định của điểm c khoản 2 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra thì còn lại đều xác định là giấy tờ không có giá. Ví dụ giấy tờ có giá: theo khoản 1 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP thì “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch. 1.2. Trong thực tiễn xét xử, ‘’giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà’’ có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không? Trong thực tiễn xét xử, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà không phải là chứng từ, bằng chứng ghi nhận nghĩa vụ trả nợ, mà chỉ là giấy tờ pháp lý ghi nhận quyền của chủ sở hữu tài sản, chủ sở hữu quyền sử dụng nên hoàn toàn không được xác định là giấy tờ có giá theo quy định tại Điều 8 Khoản 6 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các loại giấy tờ theo quy định tại Công văn 141/TAND-KHXX. Nhà nước xác lập chủ thể có quyền với mảnh đất đó nhưng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay giấy chứng nhận sở hữu nhà chỉ là một loại giấy tờ bằng chứng ghi nhận người sở hữu mảnh đất đó. Và trong trường hợp, chủ sở hữu làm mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cũng không đồng nghĩa với việc là họ không còn sở hữu mảnh đất đó nữa và có thể yêu cầu cơ quan nhà nước cấp lại mà không ảnh hưởng gì tới quyền của chủ sở hữu. Trong Quyết định số 06 có câu trả lời. Trong Quyết định 06 ghi rõ:

3

Theo Khoản 1 Điều 105 quy định ‘’tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản’’. Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015 quy định ‘’quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác’’. Căn cứ Khoảng 16 Điều 3 Luật đất đai 2013 quy định ‘’giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. Như vậy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản, càng không phải là giấy tờ có giá. Trong Bản án 39 ghi rõ ‘’giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự’’ đã chứng minh được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà không phải là giấy tờ có giá. 1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không? Vì sao? Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà không được coi là tài sản vì căn cứ theo Khoản 1 Điều 105 thì tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, trong khi đó giấy chứng nhận quyền sở hữu đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà là giấy tờ không có giá. Quyết định số 06 có ghi rõ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản, càng không phải là giấy tờ có giá. Trong Bản án số 39 ghi rõ ‘’giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp’’. Qua đó, ta có thể suy luận rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay quyền sở hữu nhà ở chỉ là một bằng chứng pháp lý để xác nhận quyền sở hữu của chủ thể với mảnh đất hay căn nhà đó như vậy giấy chứng nhận quyền sử dụng không thể coi là tài sản.

1.4. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất , giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản( và nếu có điều kiện , đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài). Từ Quyết định theo thạc sĩ Đỗ Thành Công ta có được kết luận về vai trò của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: 4

Đầu tiên , giấy chứng nhận quyền sử dụng đất một cách hợp lí ta có thể coi nó là vật dù không phải là loại giấy tờ có giá. Nguyên nhân là vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới dạng hình thức vật chất nhất định , một hình dạng rõ ràng – tờ giấy , con người có thể chiếm hữu trong khả năng của mình và có giá trị sử dụng.Và với những loại tài sản mà Nhà nước cấm lưu thông thì khi đó việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể tham gia vào giao dịch trao đổi mua bán sẽ không làm mất đi bản chất tài sản của nó. Tiếp theo, việc coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản dẫn tới nhiều hệ quả không giải thích được về mặt lý luận và thực tế, đồng thời nhận thức này làm ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người sử dụng đất. Cụ thể, theo quy định hiện hành của pháp luật dân sự Việt Nam, quyền sở hữu và từng nội dung riêng lẻ của quyền sở hữu là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt chỉ có thể thực được trên các đối tượng là tài sản. Việc coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản đã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất đối với loại giấy tờ này. Do đó khi nhìn từ góc độ khái niệm tài sản được quy định tại Điều 105 BLDS 2015 “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà “ ta có thể nhận định là tài sản dù không phải là giấy tờ có giá dưới góc nhìn khác khi các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu , quyền sử dụng đối với tài sản “ chỉ đơn thuần được coi là một vật và thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.’’. Vì thế tài sản sẽ được phân thành các loại cụ thể khác nhau với mỗi tiêu chí khác nhau. Với Quyết định số 06, Tòa án chỉ dựa vào việc “ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà .” không phải là giấy tờ có giá mà không xem xét đến việc Giấy chứng nhận có thể là một vật để đưa ra kết luận “ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà “ không là tài sản là hướng giải quyết chưa thỏa đáng. 1.5. Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao? Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà có là tài sản vì giấy chứng nhận là vật khi tồn tại dưới một hình dạng cụ thể, nằm trong khả năng chiếm hữu của con người và có giá trị sử dụng . 1.6. Suy nghĩ của anh / chị về hướng giải quyết của Bản án số 39 liên quan đến “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà.’’ Về nội dung bản án số 39 ta thấy rằng Tòa án chỉ nhận định “ giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất , quyền sở hữu nhà ở , tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất cho thấy nội dung bản án hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự “ là thuyết phục và thỏa đáng . Tòa án đã dựa vào vai trò của giấy chứng nhận để xác nhận giấy chứng nhận có liên quan đến quyền tài sản. 5

1.7. Bitcoin là gì? Bitcoin là một dạng tiền kỹ thuật số, được tạo ra và nắm giữ dưới dạng điện tử. Không giống như các loại tiền tệ vật chất truyền thống như đô la hoặc euro, Bitcoin không được in ra, không được phát hành bởi Chính phủ hay một tổ chức tài chính nào, mà được tạo ra và vận hành dựa trên hệ thống các máy tính kết nối mạng internet. Theo định nghĩa của Ngân hàng Trung ương Châu Âu thì Bitcoin là một dạng tiền kỹ thuật số, tiền ảo. Là một loại tiền kỹ thuật số không có sự quản lý, được phát hành bởi những người phát triển phần mềm và cũng thường là người kiểm soát hệ thống và được sử dụng, chấp nhận thanh toán giữa các thành viên trong một cộng đồng ảo nhất định.1 1.8. Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không? Theo Tòa án, Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam. Dựa theo Điều 163 BLDS 2005 và Điều 105 BLDS 2015 quy định về tài sản: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.” Dựa theo Công văn 5747/NHNN-PC của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 21/07/2017 gửi văn phòng Chính phủ cũng khẳng định: “Bitcoin không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam” , đồng thời Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự. Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại chưa có bất cứ một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định tiền kỹ thuật số, tiền ảo là hàng hóa, dịch vụ, sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam. 1.9. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.

1 Quan điểm quản lý, sử dụng Bitcoin trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam,[CITATION ThS21 \l

1033 ]

6

Tùy từng quốc gia và khu vực khác nhau mà Bitcoin có thể được coi là tài sản hợp pháp hay không. Ví dụ như tại Việt Nam2, Algeria3, Nepal4,… thì Bitcoin bị coi là bất hợp pháp. Tuy nhiên, tại một số nước khác như Đức, El Salvador, … thì Bitcoin được coi là hợp pháp. Tại Đức, ngày 19 tháng 8 năm 2013, Bộ Tài chính Đức đã thông báo rằng Bitcoin về cơ bản là một đơn vị tiền tệ và có thể được sử dụng cho mục đích thuế và giao dịch trong nước5. Vào tháng 11 năm 2019, Quốc hội Đức thông qua một luật cho phép các ngân hàng bán và lưu trữ tiền điện tử kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2020. Tại El Salvador, Quốc hội El Salvador ngày 9 tháng 6 năm 2021 thông qua luật công nhận tính hợp pháp của Bitcoin, xem Bitcoin là một loại tiền tệ hợp pháp.6 Tại Mỹ, Cơ quan thực thi phòng chống tội phạm tài chính của Bộ Tài chính Hoa Kỳ (FinCEN) đã ban hành hướng dẫn về Bitcoin từ năm 2013. Xác định Bitcoin không phải là tiền tệ, mà là một doanh nghiệp dịch vụ tiền (MSB).7 1.10. Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam. Căn cứ vào Điều 163 BLDS 2005 và Điều 105 BLDS 2015 quy định: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.” Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ, phương tiện thanh toán hợp pháp cùng với định nghĩa về Bitcoin, thì Bitcoin không phải là vật hay tiền hay giấy tờ có giá và không thể là quyền tài sản. Có thể thấy đồng tiền Bitcoin mang những ưu điểm vượt trội, nhận thấy là một khởi đầu cho xu thế mới trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, Bitcoin vẫn luôn biến động khó lường, 2 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tuyên bố việc phát hành, cung ứng và sử dụng Bitcoin và các loại

tiền ảo tương tự khác như là phương tiện thanh toán là bất hợp pháp và bị xử phạt từ 150 triệu đến 200 triệu đồng. 3 Năm 2018, Chính phủ Algeria ban hành luật cấm tất cả các hoạt động liên quan đến tiền ảo. Luật quy định tiền kỹ thuật số sẽ không thể thay thế hay chuyển đổi ngang giá với tiền giấy hoặc tiền định danh. 4 Ngân hàng Trung ương Nepal (Rastra Bank) vào năm 2017 đã tuyên bố đồng tiền Bitcoin là bất hợp pháp. Đến năm 2019, việc giao dịch tiền ảo bị cấm ở Nepal, dựa theo Đạo Luật Ngoại hối của nước này. 5 Matt Clinch, Bitcoin recognized by Germany as ‘private money’, 2013[ CITATION Mat13 \l 1033 ] 6 [ CITATION TTX21 \l 1033 ] 7 Quan điểm quản lý, sử dụng Bitcoin trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam,[ CITATION ThS21 \l

1033 ]

7

mà sự biến động của Bitcoin luôn vượt xa mức độ biến động của các đồng tiền truyền thống. Xét về quan điểm của Tòa án, về khung pháp lý về tiền kỹ thuật số hay tiền ảo đang được hoàn thiện để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền ảo, tài sản mã hóa, tiền mã hóa; hiện nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào xác định tiền kỹ thuật số, tiền ảo, tiền mã hóa là hàng hóa. Do đó, Tòa án nhận định Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam dựa trên Điều 105 BLDS 2015, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010. 1.11. Quyền tài sản là gì? Điều 115 BLDS 2015 quy định về quyền tài sản như sau: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.” Theo đó, quyền tài sản gồm có quyền sử dụng đất, quyền tài sản đối với quyền sở hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác. Quyền tài sản có thể được chia thành hai loại : quyền đối nhân và quyền đối vật. 1.12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản không? Án lệ số 31/2020/Al về xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước theo nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của chính phủ là quyền tài sản được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 05/02/2020 và được công bố theo Quyết định 50/QĐ-CA ngày 25/02/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. 1.13. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản? Nhận định của Tòa án: Nguồn gốc căn nhà số 63 (tầng 2) đường V, phường X, quận I (nay là đường B, phường H, quận I, Thành phố Hồ Chí Minh) là do Bộ tư lệnh Quân khu 7 tiếp quản, sử dụng từ sau ngày giải phóng Miền Nam. Năm 1981, Quân khu 7 cấp “Giấy phép quyền sở hữu sử dụng” số 092/QĐ ngày 16-4-1981 cho cụ Nguyễn Thanh T. Theo nội dung giấy phép, việc cấp nhà cho cụ T là “để tạo mọi điều kiện chỗ ăn, ở cho gia đình cán bộ, ổn định lâu dài và cấp do hoàn cảnh gia đình cán bộ không có nhà ở”, tại thời điểm cấp bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn T1 (con cụ T) sống chung với cụ T, có hộ khẩu thường trú tại căn nhà trên. Đến năm 1982, hai chị em bà Nguyễn Thị Kim L và ông Nguyễn Thanh H1 mới chuyển hộ khẩu về sống cùng cụ T. Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T. 8

1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)? Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý vì quyết định số 05 xác định phạm vi chuyển giao quyền thuê nhà, quyền mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước là chuyển giao thông qua quan hệ pháp luật về thừa kế. Nghĩa là nếu người thuê nhà thuộc sở hữu của nhà nước chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà theo quy định của pháp luật khi còn sống thì khi người đó chết, quyền thuê nhà, quyền mua hóa giá nhà sẽ được chuyển giao cho người thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế, có thể bảo vệ được lợi ích của người thừa kế. Tuy nhiên, quyết định này vẫn có bất cập vì theo quy định tại Điều 5 của Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ thì chính sách về bán nhà ở thuộc sở hữu của nhà nước hướng đến đối tượng được xác định cụ thể là người đang thuê nhà thuộc sở hữu của nhà nước, có mục đích để họ có điều kiện cải thiện chỗ ở. Nhưng nếu thừa nhận quyền tài sản này như tài sản thông thường có thể tự do chuyển giao trong giao dịch dân sự thì sẽ không đảm bảo được đúng mục đích chính sách mà nhà nước đề ra do đó cần xác định rõ giới hạn phạm vi chuyển giao các quyền tài sản này trong quan hệ pháp luật về thừa kế để tránh lạm dụng quyết định số 05/2018/DS-GDT. Trường hợp các bên chuyển giao quyền tài sản này thông qua các giao dịch dân sự khác thì không nên áp dụng án quyết định.

Vấn đề 2: Căn cứ xác lập quyền sở hữu Tóm tắt Quyết định số: 111/2013/DS-GĐT ngày 09/9/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Cụ Hảo có tài sản là nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm. Năm 1954, cụ giao nhà cho ông Chính và bà Châu (vợ chồng con trai) quản lý. Năm 1968 hai vợ chồng cho ...


Similar Free PDFs