BUỔI THẢO LUẬN 5 - NHÓM 3 - TMQT 46 - khóa 46 PDF

Title BUỔI THẢO LUẬN 5 - NHÓM 3 - TMQT 46 - khóa 46
Author Nhung Phạm
Course Luât Dân sự 1
Institution Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 24
File Size 676.9 KB
File Type PDF
Total Downloads 31
Total Views 134

Summary

Khoa Luật Quốc tế Lớp Luật Thương mại Quốc tế 46.BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂMBộ môn: Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kếGiảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hoàng HảiNhóm: 03Thành viên:1 Phạm Thị Hồng Nhung 2153801090084 2 Chiêm Lê Thảo Nhi 2153801090080 3 Nguyễn Hà Phương 2153801090087 4 Bùi Lê Hải Thi ...


Description

Khoa Luật Quốc tế Lớp Luật Thương mại Quốc tế 46.2

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM

Bộ môn: Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế Giảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải Nhóm: 03 Thành viên: 1 2 3 4 5 6 7 8

Phạm Thị Hồng Nhung Chiêm Lê Thảo Nhi Nguyễn Hà Phương Bùi Lê Hải Thi Phạm Đặng Khánh Thụy Nguyễn Thị Kim Tuyết Đinh Thảo Vy Trần Hoàng Yến

2153801090084 2153801090080 2153801090087 2153801090097 2153801090101 2153801090114 2153801090120 2153801090124

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 4 năm 2022

MỤC LỤC VẤN ĐỀ 1 DI SẢN THỪA KẾ ......................................................................... 1 1.1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ...............................................................................................2 1.2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao? .......................2 1.3. Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. .....................................................................3 1.4. Trong Bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án có câu trả lời?..........................................................................................................4 1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. ...............4 1.6. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao? ...................................................................................6 1.7. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao? .....................................................6 1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K. ......................................7 1.9. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia không? Vì sao?............................................................................................9 1.10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao? .........................................................................9 1.11. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? .................................................................10 1.12. Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao? 10 VẤN ĐỀ 2 QUẢN LÝ DI SẢN ....................................................................... 11 2.1. Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao? ...............11 2.2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ............................................12

2.3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ............................12 2.4. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ............12 2.5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ...........................................................13 2.6. Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. .............................................................................................13 VẤN ĐỀ 3 THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ ............................. 15 3.1.

Các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam. ..............................15

3.2. Pháp luật nước ngoài có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản không? ...................................................................................................................16 3.3. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?...........................17 3.4. Việc án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao? .......17 3.5. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao? ......18 3.6.

Suy nghĩ của Anh/Chị về Án lệ số 26/2018/AL nói trên. ............................19

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... 21

1

VẤN ĐỀ 1 DI SẢN THỪA KẾ * Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc về “V/v tranh chấp thừa kế tài sản”. − Nguyên đơn: Ông Trần Văn Hòa − Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Tạ Ngọc Toàn − Bị đơn: Anh Trần Hoài Nam − Chị Trần Thanh Hương − Người làm chứng: Chị Vũ Thị Thanh − Nội dung: là vụ án tranh chấp thừa kế tài sản, theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn trình bày: Ông Hòa và bà Mai kết hôn năm 1980. Quá trình chung sống có 2 người con, ngoài ra không có con đẻ và con nuôi nào khác. Tài sản chung của 2 người gồm: 1 ngôi nhà 3 tầng, một lán bán hàng xây dựng năm 2006. Năm 2006, gia đình ông Hòa đã sử dụng toàn bộ phần đất phía trước nhà gióng thẳng ra đường chính. Năm 2006 ông bà xây ngôi nhà 3 tầng, lớn bán hàng trên toàn bộ diện tích đất. Nguồn tiền xây dựng là của ông bà, các con của ông bà không có tiền cũng như công sức đóng góp trong khối tài sản chung. Ngày 31/1/2017 bà Mai mất, không để lại di chúc. Từ khi bà Mai mất đến nay, ông Hòa trực tiếp quản lý, sử dụng toàn bộ số tài sản trên. − Quyết định: Căn cứ Điều 213, 612, 613, 614, 623, 649, 650, 651, 660, 357 và khoản 2 Điều 468 BLDS. Chấp nhận đơn khởi kiện; chia phần tài sản cho ông Hòa, chị Hương, anh Nam. Buộc anh Nam thanh toán chênh lệch về tài sản. Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Hòa. * Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. − Nguyên đơn: chị Phùng Thị H1, chị Phùng Thị N1, chị Phùng Thị P, chị Phùng Thị H2 − Bị đơn: Phùng Văn T − Nội dung: Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2 ( đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ) trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn

2

T quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, nhằm để lo cuộc sống của bà và các con. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là không đúng. 1.1.

Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở

pháp lý khi trả lời. − Theo quy định tại Điều 105 BLDS năm 2015: 1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. − Theo Điều 612 Bộ luật Dân sự 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác” ➔ Vậy quyền tài sản đã nằm trong khái niệm tài sản. Di sản còn bao gồm cả các quyền tài sản như: quyền đòi bồi thường thiệt hại, quyền đòi nợ, quyền thừa kế giá trị, quyền sử dụng nhà thuê của nhà nước. Mặt khác, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ của người quá cố. Do đó, trường hợp còn có cả nghĩa vụ về tài sản, thì thông thường phần nghĩa vụ này sẽ được thanh toán bằng tài sản của người chết. Phần còn lại sẽ được xác định là di sản thừa kế và được chia theo di chúc hay quy định của pháp luật, theo Khoản 1 Điều 615: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Và theo Điều 658 Bộ luật Dân sự 2015 thì hiểu rằng trước khi chia di sản, những người thừa kế phải thanh toán các nghĩa vụ của người chết để lại xong còn lại mới phân chia. Việc thực hiện nghĩa vụ không phải với tư cách là chủ thể có nghĩa vụ do họ xác lập và thực hiện các nghĩa vụ của người chết để lại bằng chính tài sản của người chết. 1.2.

Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một

tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao? − Tùy vào từng trường hợp mà chúng ta sẽ xem tài sản đó có phải là di sản hay không bởi vì khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản khác, thì chúng ta phải linh động xem xét giá trị của nó. Nếu như

3

nó bằng giá trị ban đầu thì nó được xem là di sản, nhưng nó vượt quá thì cái phần vượt quá đó không xác định nó là di sản. 1.3.

Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người

quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. − Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015: “Tài sản gồm có tiền; vật; giấy; giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Như vậy, quyền sử dụng đất được xem là tài sản theo quy định của pháp luật. Trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác thì quyền sử dụng đất đó là di sản thừa kế theo Điều 612 của Bộ Luật Dân sự 2015. − Theo quy định của pháp luật đất đai 2013 có 03 căn cứ xác lập quyền sử dụng đất: • Người sử dụng đất được nhà nước giao đất, cho thuê đất; • Người sử dụng đất nhận chuyển quyền sử dụng đất thông qua các giao dịch •

dân sự hợp pháp. Được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất.

− Theo quy định tại điều 188 Luật đất đai 2013, người sử dụng đất thực hiện quyền thừa kế quyền sử dụng đất khi đảm bảo đủ các điều kiện sau đây: • • • •

Đất không có tranh chấp Quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án. Trong thời hạn sử dụng đất Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

− Do đó theo quy định của Luật đất đai 2013, quyền sử dụng đất được coi là di sản thừa kế hợp pháp nếu như thửa đất đó đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cụ thể là một trong các giấy tờ về quyền sử dụng đất, cụ thể là có một trong các giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại điều 100 Luật đất đai 2013 hoặc không có giấy tờ theo điều 100 nhưng đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận chứng nhận quyền sử dụng đất theo điều 101 luật đất đai 2013. ➔ Cho nên để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố có không cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

4

1.4.

Trong Bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án có câu trả lời? − Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản. Cụ thể ở đoạn: “Theo hồ sơ hiện trạng được Công ty đo đạc, khảo sát thực tế ngày 21/02/2020 thể hiện, ngôi nhà và lán bán hàng được làm và xây dựng trên cả diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận và diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận. Kết quả xác minh tại UBND phường Đống Đa (nơi có diện tích đất tranh chấp), Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Vĩnh Yên, Chi cục thuế Nhà nước thành phố Vĩnh Yên thể hiện: Gia định ông Hòa đã xây dựng ngôi nhà 3 tầng, sân và lán bán hàng trên một phần diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận; diện tích đất này hộ ông Hòa đã quản lý, sử dụng ổn định nhiều năm nay, các hộ liền kề đã xây dựng mốc giới rõ ràng, không có tranh chấp, không thuộc diện đất quy hoạch phải di dời, vị trí đất tăng nằm tiếp giáp với phía trước ngôi nhà và lán bán hàng của hộ ông Hòa, giáp đường Nguyễn Viết Xuân, đất thuộc diện được cấp giấy chứng nhận sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, tiền thuế là 19.000.000đ/m2. Do đó, đây vẫn là tài sản của ông Hòa, bà Mai, chỉ có điều đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, nếu không xác định là di sản thừa kế và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự”. “Từ lập luận nêu trên, có đủ căn cứ để xác định tài sản chung của ông Hòa, bà Mai gồm: ½ giá trị nhà và sân tường bao loan là 306.050.500đ; lán bán hàng 21.064.000đ; 84m2 đất đã được cấp giấy chứng nhận 3.528.000đ; 85m2 chưa được cấp giấy chứng nhận sau khi trừ đi nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước 1.966.500.000đ; tiền thuê nhà và lán bán ông Hòa quản lý 300.000.000đ chị Hương quản lý 30.000.000đ…” 1.5.

Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08

về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. − Hướng xử lý của Tòa án là hợp lý vì:

5

• Trong trường hợp diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà để thực hiện việc phân chia di sản thừa kế, thì diện tích đất đó phải đủ các điều kiện trong khoản 2, điều 101, luật đất đai 2013: Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất. 2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. − Mà theo nhận định của tòa án trong bản án: “Kết quả xác minh tại UBND phường Đống Đa (nơi có diện tích đất tranh chấp), Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Vĩnh Yên, Chi cục thuế Nhà nước thành phố Vĩnh Yên thể hiện: Gia định ông Hòa đã xây dựng ngôi nhà 3 tầng, sân và lán bán hàng trên một phần diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận; diện tích đất này hộ ông Hòa đã quản lý, sử dụng ổn định nhiều năm nay, các hộ liền kề đã xây dựng mốc giới rõ ràng, không có tranh chấp, không thuộc diện đất quy hoạch phải di dời, vị trí đất tăng nằm tiếp giáp với phía trước ngôi nhà và lán bán hàng của hộ ông Hòa, giáp đường Nguyễn Viết Xuân, đất thuộc diện được cấp giấy chứng nhận sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, tiền thuế là 19.000.000đ/m2” ➔ Vậy cho thấy đây là đất hoàn toàn có thể được cấp giấy chứng nhận cho ông Hòa, bà Mai để có quyền sử dụng đất một cách hợp pháp. Đồng nghĩa diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng là di sản của ông Hòa, bởi đất đó thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

6

1.6. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao? − Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N là 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng ông, tức là 133,5m2. − Giải thích: + Ngày 07-7-1984 ông Phùng Văn N chết (trướ c khi chết không để lại di chúc) bà Phùng Thị G và anh Phùng Văn T quản lý và sử dụng nhà đất trên. + Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là 267m2. + Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. ➔ Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. − Đồng thời, diện tích 267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G, nhưng được hình thành trong thời gian hôn nhân nên phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G chưa chia nên phần di sản của Phùng Văn N là 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng ông, tức là 133,5m2. 1.7. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao? − Quyết định số 131/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 12-11-2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 06/2012/DSPT ngày 232-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc nhận định:

7

+ Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là không đúng. + Bởi vì năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. + Theo em, án lệ 2016 giải quyết kịp thời những khó khăn trong thực tiễn với hai nội dung cơ bản là xác định sự đồng ý của người không tham gia giao dịch và hệ quả khi xác nhận sự đồng ý của những không tham gia giao dịch dân sự đó. Trong trường hợp này, những người con của bà Phùng Thị G đã đồng ý vì đã biết và không phản đối việc bà bán đất cho Phùng Văn K. Ngoài ra, chi tiết bà Phùng Thị G mang di sản thừa kế là đất để mang đi giao dịch và mang về một khoản tiền để lo cho các người đồng thừa kế thì hoàn toàn thuyết phục, hợp lý. Mặc dù những người thừa kế là các con của bà Phùng Thị G không đứng ra tham gia trực tiếp khi thực hiện giao dịch dân sự này. 1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K. − Theo em hướng giải quyết trong Án lệ của Tòa án liên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn xét về mặt tình và lý đều hoàn toàn hợp lý và thuyết phục bởi các bên đều có quyền lợi khi xét theo cách giải quyết của Tòa án với các lý do như sau: + Phần đất này là của cả hai vợ ...


Similar Free PDFs