LSĐCSVN - lsd PDF

Title LSĐCSVN - lsd
Author Hà Trương
Course Tin học đại cương
Institution Học viện Tài chính
Pages 13
File Size 375.5 KB
File Type PDF
Total Downloads 699
Total Views 955

Summary

Download LSĐCSVN - lsd PDF


Description

BỘ TÀI CHÍNH HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

Đề tài TÍNH NHÂN DÂN, TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN, LÂU DÀI, DỰA VÀO SỨC MÌNH LÀ CHÍNH CỦA ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP GIAI ĐOẠN 1946 – 1950 VÀ Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỐI VỚI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẠI DỊCH COVID – 19 Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Họ và tên:

Mã Sinh viên:

Khóa/Lớp: (tín chỉ) VPP0403C5 STT: 06

3 (Niên chế): C

ID phòng thi: 530 053 0013

Ngày thi: 19/06/2021

4

HT thi: 201-ĐT

Giờ thi: 7h30

BÀI THI MÔN: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Hình thức thi: Tiểu luận Thời gian thi: 3 ngày BÀI LÀM

Mc Lc Lời mở đầu ..................................................................................... 1 Nội dung .......................................................................................... 2 1. Quá trình bùng nổ cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1946 – 1950. ........................................................................................................................ 2 1.1. Hoàn cảnh lịch sử. ............................................................................. 2 1.2. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. ............................................... 2 1.3. Những thuận lợi và khó khăn của nước ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. ................................................................................................. 3 1.3.1. Thuận lợi...................................................................................... 3 1.3.2. Khó khăn. ..................................................................................... 3 2. Đường lối kháng chiến của Đảng chống thực dân Pháp giai đoạn 1946 – 1950. ............................................................................................................... 3 2.1. Quá trình hình thành. ......................................................................... 3 2.2. Nội dung đường lối............................................................................ 3 3. Tính nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính đối với cuộc kháng chiến chống đại dịch Covid – 19 ở Việt Nam hiện nay. 5

Kết luận ......................................................................................... 10 Danh mc tài liệu tham khảo ..................................................... 11 Chú thích: ..................................................................................... 11

1

Lời mở đầu Nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức của toàn thể dân tộc trên khắp mọi miền quê, đã trở thành truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn người Việt Nam. Trải qua suốt bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Việt Nam chúng ta phải đi qua biết bao nhiêu cuộc chiến tranh khốc liệt, những người anh hùng đi trước đổ mồ hôi, xương máu để gây dựng nên nền độc lập dân tộc. Một trong những sự kiện quan trọng nhất, oanh liệt nhất của dân tộc Việt Nam thế kỉ 20 chính là thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 – bước ngoặt của dân tộc Việt Nam. Đây là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta khi có Đảng lãnh đạo, đưa dân tộc Việt Nam bước sang một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từng bước trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”1. Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới thứ 2, nền kinh tế của Pháp chịu thiệt hại hết sức nặng nề và vị thế của Pháp trên trường quốc tế suy giảm nghiêm trọng. Khi chiến tranh kết thúc, nhằm bù đắp cho nền kinh tế và khẳng định lại vị thế của mình thì thực dân Pháp luôn muốn tìm cách đô hộ các nước thuộc địa Đông Dương và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Pháp lúc này lại có ý định xâm lược Việt Nam ta lần thứ hai, biến nước ta một lần nữa trở thành nước thuộc địa của Pháp. Nhưng dân tộc Việt Nam ta đồng lòng đứng lên đấu tranh chống lại thực dân Pháp xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, về căn bản ta đã có một đường lối đấu tranh cụ thể, đó là tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Từ đó, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc cùng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đã trở thành bài học kinh nghiệm lớn , là điều kiện đảm bảo thực hiện thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng của dân tộc. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, bài học kinh nghiệm về đường lối kháng chiến của Đảng vẫn còn nguyên giá trị và cần phải được phát huy một cách tích cực, nhằm khơi dậy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, tiến tới xây dựng mục tiêu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2

Nội dung 1. Quá trình bùng nổ cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1946 – 1950. 1.1. Hoàn cảnh lịch sử. Kể từ cuối tháng 10 - 1956, tình hình chiến sự diễn ra ở Việt Nam vô cùng căng thẳng, đặc biệt là khi mối quan hệ giữa Pháp - Việt Nam ngày càng xấu đi vì bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Việt Nam bộc lộ rõ thái độ bội ước. Mặc dù Đảng và Chính phủ ta, cùng với quân đội nhân dân Việt Nam vẫn tiếp tục nhân nhượng, kìm chế, thực hiện các chủ trương hòa hoãn và bày tỏ thiện chí hòa bình nhưng Pháp lúc này chỉ muốn “dùng biện pháp quân sự để giải quyết mối quan hệ Việt – Pháp”; chúng tăng cường bình định ở các tỉnh Nam Bộ, xúc tiến tái lập Nam Kỳ tự trị; gây hấn, khiêu khích, gây xung đột quân sự, lấn chiếm nhiều vị trí ở nơi đóng quân ở Bắc Bộ Việt Nam; đặt lại nền thống trị ở Campuchia và Lào, chia rẽ ba nước Đông Dương. 1.2. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 20-11-1946, thực hiện theo kế hoạch đã được vạch ra trước, thực dân Pháp tấn công vũ trang đánh chiếm Hải Phòng, chúng cho nổ súng vào thành phố trong nhiều giờ, khiến cho khoảng 6.000 người dân thường thiệt mạng. Ngày 17-12-1946, quân đội Pháp gây chiến, bắn đại bác gây ra vụ thảm sát đồng bào ở khu vực Hàng Bún – Hà Nội. Ngay ngày hôm sau, đại diện Pháp gửi tối hậu thư, tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với Chính phủ Việt Nam, đòi Việt Nam phải giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi độc quyền thực thi các nhiệm vụ kiểm soát, giữ gìn an ninh trật tự của thành phố. Đến ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) để hoạch định chủ trương đối phó với quân đội Pháp, do Hồ Chí Minh chủ trì. Vào 20 giờ cùng ngày, điện trong toàn thành phố phụt tắt, tất cả các chiến trường đều đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20-12-1946, đại diện cho tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh bất khuất của dân tộc, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được phát đi trên Đài Tiếng nói Việt Nam: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!..."2 Cuộc kháng chiến toàn quốc Việt Nam chính thức bùng nổ. Nhân dân ta quyết tâm đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ nền độc lập dân tộc, chính quyền cách mạng và những thành quả đã giành được của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

3

1.3. Những thuận lợi và khó khăn của nước ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. 1.3.1. Thuận lợi. Nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do dân chủ của dân tộc và đánh địch trên đất nước mình nên là chính nghĩa. Đường lối cách mạng, đường lối kháng chiến của quân và dân ta là độc lập, tự chủ; có sức mạnh to lớn của tiền tuyến và hậu phương vững chắc; chính quyền cách mạng được giữ vững, củng cố và lớn mạnh, nhân dân ta đồng lòng đứng lên đấu tranh. Đứng đầu Đảng ta là Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người đã có những chỉ đạo sáng suốt, tài tình trong cuộc chiến tranh với thực dân Pháp xâm lược. Thực dân Pháp cũng gặp nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự ở trong nước và tại Đông Dương không dễ gì có thể khắc phục ngay được. 1.3.2. Khó khăn. Tương quan lực lượng quân sự giữa Pháp và Việt Nam thì quân đội ta yếu hơn quân địch. Ta bị bao vây khắp bốn phía, chưa được nước nào công nhận giúp đỡ. Còn quân đội Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng hai nước Campuchia và Lào cùng với một số thành phố, thị xã ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội bên trong các thành thị lớn ở miền Bắc. 2. Đường lối kháng chiến của Đảng chống thực dân Pháp giai đoạn 1946 – 1950. 2.1. Quá trình hình thành. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng được thể hiện thông qua nhiều văn kiện quan trọng, trong đó có 3 văn kiện chính, đó là: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946); Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban thường vụ Trung ương Đảng (22-12-1946) và được giải thích cụ thể trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh (8-1947). 2.2. Nội dung đường lối. Mục tiêu của cuộc kháng chiến là kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng tháng Tám năm 1945, đánh thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập dân tộc, tự do, thống nhất hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ góp vào phần bảo vệ hòa bình thế giới. Tính chất cuộc kháng chiến: Đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa, có tính chất giải phóng dân tộc và dân chủ mới. Nhiệm vụ cuộc kháng chiến: Động viên các nguồn lực, giành độc lập, thống nhất, củng cố chế độ, tăng gia sản xuất. Phương châm tiến hành: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.

4

Thứ nhất, là kháng chiến toàn dân. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin thì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, vậy nên chúng ta muốn đánh được Pháp thì cần phải phát huy sức mạnh tối đa toàn dân của khối đại đoàn kết dân tộc. Về kinh nghiệm lịch sử, bất cứ cuộc đấu tranh nào thu hút và tập hợp đông đảo nhân dân tham gia sẽ là nhân tố quan trọng cho thắng lợi của cuộc chiến tranh ấy. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “ Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy độc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước…”3. Như vậy, kháng chiến toàn dân chính là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân tham gia kháng chiến, trong đó quân đội nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Thứ hai, là kháng chiến toàn diện. Kháng chiến chống giặc trên tất cả mọi lĩnh vực. Từ đó, động viên và phát huy cho được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân dân phục vụ kháng chiến thắng lợi. Về chính trị: đường lối kháng chiến của Đảng là xây dựng củng cố Đảng, chính quyền thực sự vững mạnh, đoàn kết toàn dân tham gia kháng chiến. Về kinh tế: xây dựng hậu phương vững chắc về kinh tế đáp ứng đời sống nhân dân, đáp ứng nhu cầu vật chất kĩ thuật, vũ khí, lương thực, thực phẩm ra chiến trường. Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa dân chủ mới trên 3 nguyên tắc: khoa học, dân tộc và đại chúng, xóa bỏ chính sách ngu dân, nô dịch của thực dân Pháp. Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng củng cố bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ phát huy lối đánh chủ động; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân, đất đai. Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực, liên lạc với dân tộc Pháp và sẵn sàng đàm phán với Pháp, tranh thủ sự đồng tình của bạn bè trên thế giới. Từ đó động viên và phát huy cho được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân dân phục vụ kháng chiến thắng lợi. Thứ ba, là kháng chiến lâu dài, đây là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trên thực tế, khi so sánh tương quan lực lượng giữa Pháp và Việt Nam thì Pháp lúc đó mạnh hơn ta rất nhiều, chúng có vũ khí tối tân, hiện đại và được sự hậu thuẫn của các nước đế quốc. Việt Nam ta lúc bấy giờ quân đội còn non trẻ, vũ khí thô sơ nên phải vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, chống lại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của quân đội địch; từng bước làm thay đổi tương quan lực lượng của quân đội nhân dân ta từ yếu sang mạnh. Vì vậy chúng ta phải kháng chiến lâu dài, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước nhảy

5

vọt về chất, tiến lên tiêu diệt lực lượng và âm mưu của địch, đi tới thắng lợi cuối cùng. Thứ tư, là kháng chiến dựa vào sức mình là chính. Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng chiến lược và phát huy nó trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành lại chính quyền. Bắt nguồn từ nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất và tinh thần vốn có của mỗi người dân làm chỗ dựa chủ yếu của cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp. Trên cơ sở đó, phát huy cao độ và có hiệu quả từ sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan trọng hàng đầu. Triển vọng cuộc kháng chiến: mặc dù diễn ra trong khoảng thời gian lâu dài, gian khổ, khó khăn, song cuộc kháng chiến của dân tộc ta nhất định thành công. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản là hoàn toàn đúng đắn, khoa học và sáng tạo; trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp trong giai đoạn 1946 – 1950. 3. Tính nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính đối với cuộc kháng chiến chống đại dịch Covid – 19 ở Việt Nam hiện nay. Trong đời sống hiện đại ngày nay, cuộc sống của người dân không chỉ bị đe dọa bởi các thảm họa thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán, ô nhiễm môi trường,… mà còn phải gánh chịu các loại bệnh dịch – kẻ thủ vô cùng đáng sợ đối với con người trên trái đất. Những căn bệnh nguy hiểm gây chết người đang xuất hiện ngày càng nhiều và lây lan nhanh chóng trên khắp thế giới là một trong những hiểm họa đe dọa trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người. Vào khoảng tháng 12-2019, đại dịch Covid - 19 lần đầu tiên bùng phát ở thành phố Vũ Hán, Trung Quốc. Sau đó, nó đã lan sang các tỉnh thành khác của Trung Quốc đại lục và các quốc gia khác, bao gồm Thái Lan, Nhật Bản, Đài Loan,… trong đó có cả nước Việt Nam ta. Khi đứng trước đại dịch toàn cầu gây nguy hiểm mạnh đến sức khỏe của con người, Đảng và Chính phủ ta đã có lời kêu gọi toàn dân đồng lòng, chung tay phòng chống dịch bệnh. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước, chúng ta chống dịch, phòng chống đại dịch Covid – 19 là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, huy động sự tham gia tích cực, quyết liệt của các bộ, ngành, địa phương và toàn thể nhân dân. Do đó, việc phòng chống bệnh truyền nhiễm lây lan không thuộc về riêng trách nhiệm của Nhà nước hay cá nhân, tổ chức nào cả mà đó là trách nhiệm chung của cả cộng đồng, mang tính nhân dân cùng đấu tranh chống lại bệnh dịch. Có như vậy, cuộc kháng chiến chống đại dịch Covid – 19 ở Việt Nam hiện nay như phản

6

ánh lại “tính nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính” – đường lối mà Đảng ta đã xây dựng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giai đoạn 1946 – 1950. Thứ nhất, tính toàn dân của Việt Nam ta được thể hiện ở chỗ người dân cùng chung sức đẩy lùi dịch bệnh, dù phải chịu rất nhiều bất tiện, thậm chí là thiệt thòi về lợi ích kinh tế và hơn thế nữa, rất nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đã có vô vàn những hành động rất đẹp và hết sức ý nghĩa trong công tác phòng chống dịch bệnh. Trong quá trình phòng chống dịch, nhân dân nâng cao ý thức, trách nhiệm của bản thân, đã thực hiện đầy đủ, đúng đắn các chính sách, chủ trương mà Đảng và Nhà nước kịp thời ban hành, đưa ra các giải pháp hiệu quả để giảm số lượng các ca nhiễm bệnh, cụ thể trong số đó là “Thông điệp 5K: Khẩu trang – Khử khuẩn – Khoảng cách – Không tụ tập – Khai báo y tế”. Chính vì sự đoàn kết, đồng lòng nên nhân dân ta luôn tin tưởng vào những chính sách của Đảng và Nhà nước. Cụ thể là vào tối ngày 5-6-2021, sau khi lễ ra mắt Quỹ vaccine phòng chống dịch bệnh Covid – 19 được tổ chức, trên các phương tiện truyền thông và Facebook tràn ngập những hình ảnh đẹp. Đó là những tấm ảnh trao biển tượng trưng ủng hộ Quỹ vaccine phòng chống dịch Covid – 19 do chính các tổ chức, cá nhân trao tặng đăng tải trên mạng xã hội. Theo thông tin từ Cổng thông tin điện tử nhân đạo Quốc gia, riêng số tiền các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, đơn vị tham gia quyên góp ủng hộ cho Quỹ vaccine phòng chống Covid – 19 qua tin nhắn đã lên tới hơn 1,3 triệu lượt tin nhắn ủng hộ với số tiền trên 60,8 tỷ đồng. Còn theo báo cáo mới nhất của ban quản lí Quỹ tính đến thời điểm ngày 11-6-2021 đã có 275.130 tổ chức và cá nhân tham gia đóng góp với tổng giá trị 4.443 tỉ đồng và hơn 3.253 tỉ đồng mà nhà tài trợ đã cam kết. Như vậy là chỉ ít ngày sau khi ra mắt Quỹ vaccine phòng chống Covid – 19 đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Mỗi người ở mỗi lứa tuổi khác nhau nhưng với những công việc riêng, tất cả đều đồng lòng hướng về mục tiêu chung, đó là góp sức với cả dân tộc, sớm đẩy lùi dịch bệnh. Thứ hai, tính toàn diện của Việt Nam ta được thể hiện thông qua các chính sách của Đảng và Nhà nước, trên mọi mặt lĩnh vực của đất nước. Về chính trị: Trước tình hình dịch bệnh diễn ra ở nước ngoài vô cùng căng thẳng khi số lượng người tử vong ở những nước đó là rất khủng khiếp thì Đảng và Nhà nước ta đã làm rất tốt trong việc tổ chức các chuyến bay chuyên chở nhà ngoại giao, chuyên gia, nhà đầu tư, lao động tay nghề cao người nước ngoài và thân nhân nhập cảnh Việt Nam với công dân, lao động, học sinh Việt Nam về nước an toàn; quản lý biên giới và không để cho người nhập cảnh một cách trái phép vào Việt Nam, đặc biệt là khi tình hình diễn biến ở các nước xung quanh chúng ta rất phức tạp, cả ở phía Bắc, cả ở phía Nam và miền Trung. Tăng cường các công tác quản lý, phối hợp kiểm tra chặt chẽ các

7

chuyến bay, bảo đảm tần suất, đối tượng và số lượng người, chuyến bay theo kế hoạch được duyệt, phù hợp khả năng tiếp nhận trong nước; đồng thời tổ chức lực lượng chức năng để giải quyết nhanh các thủ tục liên quan, không để xảy ra tình trạng quá tải, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định phòng chống đại dịch Covid - 19. Ngoài ra, đối với những trường hợp vi phạm quy định phòng chống dịch bệnh như việc không đeo khẩu trang khi đi ra ngoài, tụ tập đông người vượt trên mức số lượng người mà Nhà nước cho phép, đưa người vượt biên trái phép vào Việt Nam, không đi và không thực hiện cách ly theo quy định của Nhà nước,… đều được Nhà nước xử lý nghiêm khắc và các hình thức xử phạt đều được nêu rõ ràng trong văn bản số 45/TANDTC-PC theo quy định của pháp luật. Về kinh tế: Trong bối cảnh đại dịch Covid – 19 có thể còn kéo dài, chúng ta vừa phải khai thác tối đa các thị trường trong nước vừa phải phòng ngừa, ứng phó với các bất ổn đến từ bên ngoài. Đầu tiên, đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Đảng và Nhà nước tiếp tục hỗ trợ các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế thông qua các chính sách ưu đãi về tài chính – ngân sách nhà nước. Đảm bảo ổn định, phục hồi các ngành kinh tế then chốt, giữ vững nền kinh tế vĩ mô, kiểm soát tình hình lạm phát, tăng cường xuất khẩu – nhập khẩu an toàn theo quy định của Nhà nước. Tiếp đó, bảo đảm các vấn đề an sinh xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động, tạo điều kiện cho họ sớm quay trở lại thị trường. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy sức sáng tạo và khả năng thích ứng của mình, tập trung hỗ trợ người sử dụng lao động đào tạo lại người lao động đáp ứng yêu cầu mới; đẩy mạnh kết nối cung, cầu lao động, gắn với thị trường lao động trong và ngoài nước. Cuối cùng, huy động sự đóng góp của người dân, cơ quan tổ chức đoàn thể vào Quỹ phòng chống dịch Covid – 19. Vào ngày 27-4-2021, Phiên họp thứ 55 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chính thức được khai mạc. Tại đây, Quốc hội đã thống nhất về việc chuyển ng...


Similar Free PDFs