Tiểu-luận-Kinh tế chính trị TRI115 20212022 PDF

Title Tiểu-luận-Kinh tế chính trị TRI115 20212022
Author Hồng Mai Nguyễn
Course Kinh tế chính trị
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 21
File Size 456.2 KB
File Type PDF
Total Downloads 80
Total Views 406

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ=====000=====TIỂU LUẬNMôn: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNINĐề tài: “ QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONGNỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. LIÊN HỆ ĐẾN NỀN KINH TẾ THỊTRƯỜNG Ở VIỆT NAM”Họ tên SV: Nguyễn Thị Hồng MaiMã SV: 2114810035Lớp: TRI115.Khóa: KGiảng vi...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ =====000=====

TIỂU LUẬN Môn: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN Đề tài: “QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. LIÊN HỆ ĐẾN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM”

Họ tên SV: Nguyễn Thị Hồng Mai Mã SV: 2114810035 Lớp: TRI115.6 Khóa: K60 Giảng viên hướng dẫn: TS Đặng Hương Giang

Hà Nội, tháng 4 năm 2022

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU Phần 1 Cơ sở lý luận chung về quy luật giá trị, vai trò của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường Cơ sở lý luận chung về quy luật giá trị 1.1 Vai trò của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường 1.2 Phần 2 Kinh tế thị trường, biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường. Thực trạng nền kinh tế nước ta và kết quả của việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường Việt Nam 2.1 Kinh tế thị trường 2.2 Sự biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường 2.3 Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay 2.4 Kết quả của việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam Phần 3 Những biện pháp vận dụng hiệu quả quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta Những biện pháp của Đảng và nhà nước ta 3.1 Một số giải pháp đề xuất 3.2 KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 2 3 3 6 10

10 11 12 14

17 17 17 19 20

DANH MỤC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Đồ thị 2.4.1. Tăng trưởng GDP và GDP/người qua các năm Đồ thị 2.4.2. Chỉ số CPI (Chỉ số giá tiêu dùng) qua các năm

LỜI MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu đề tài 1

Trang 15 15

Kinh tế thị trường được xem là một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong nền kinh tế. Đây là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm mới, trao đổi mua bán hàng hóa và là điều kiện đẻ phát triển vật chất, đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao mà tại đó người mua và người bán tác động qua lại thông qua rất nhiều quy luật khác nhau trong đó có quy luật giá trị. Trong nền sản xuất hàng hóa thì đây là một quy luật kinh tế cơ bản. Nó quy định bản chất của nền sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác. Quy luật giá trị tồn tại và phát triển ở bất kỳ nơi nào có sản xuất, trao đổi và lưu thông hàng hóa. Nó tác động đến nền kinh tế trong trường hợp giá cả bằng giá trị, giá cả lên xuống xung quanh giá trị. Vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu rõ lý luận về quy luật giá trị, tác động của quy luật giá trị và vận dụng nó trong nền kinh tế thị trường để từ đó hiểu rõ được bản chất của quy luật giá trị cũng như là mối quan hệ của nó trong nền kinh tế thị trường để có thể vận dụng và khắc phục những nhược điểm của nền kinh tế từ đó phát triển đất nước một cách nhanh chóng. Chính vì lí do đó em đã quyết định lựa chọn đề tài “Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường, liên hệ đến nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”. 2. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu Giúp cho mọi người tiếp cận được quy luật giá trị cũng như cách vận động của nền kinh tế thị trường hiện nay và cụ thể hơn là tìm hiểu về nội dung của quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Từ đó có cái nhìn toàn diện và chính xác về vai trò của quy luật giá trị đến nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay và đưa ra các giải pháp, hoạch định để phát triển nền kinh tế cũng như sự phát triển chung của đất nước.

Phần 1: Cơ sở lý luận chung về quy luật giá trị, vai trò của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường 2

1.1.Cơ sở lý luận chung về quy luật giá trị 1.1.1.Quan điểm của Mác về giá trị Sự ra đời của sản xuất hàng hóa được xem là một bước ngoặt vĩ đại đưa loài người thoát khỏi tình trạng khó khăn, xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất cũng như nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội . Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa thì hàng hóa được coi như là nhân tố quan trọng của xã hội. Một hàng hóa chỉ được chấp nhận khi nó có tồn tại vẹn nguyên hai thuộc tính đó là giá trị và giá trị sử dụng. Nếu “giá trị sử dụng” chỉ quyết định công dụng, tính có ích của hàng hóa thì “giá trị” theo Mác nói mới chính là cái tạo nên mối quan hệ sản xuất trong xã hội. Để tạo nên hai tính chất của hàng hóa thì lao động sản xuất hàng hóa được Mác xem xét dưới hai mặt đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng: Lao động cụ thể là lao động tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Các loại lao động cụ thể khác nhau tạo ra những sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau. Khi mà phân công lao động xã hội càng phát triển sẽ có càng nhiều ngành nghề khác nhau, các hình thức lao động cụ thể càng phong phú, đa dạng thì lại càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau. Lao động trừu tượng chính là lao động hao phí đồng chất của con người để tạo ra hàng hóa. Lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa không kể đến hình thức cụ thể của nó, đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người sản xuất hàng hóa về cơ bắp, thần kinh và trí óc được gọi là lao động trừu tượng. Sản phẩm của lao động trừu tượng sẽ là cơ sở cho sự ngang bằng trao đổi, đó chính là giá trị. Như vậy, theo quan điểm của C. Mác giá trị chính là lượng hao phí lao động trừu tượng xã hội cần thiết kết tinh trong hàng hóa. Mác đã định nghĩa rằng lượng giá trị hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Đây 3

giống như là một cuộc cách mạng lớn lao trong lĩnh vực khoa học kinh tế chính trị mà chính Mác cũng đã khẳng định “Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa và khoa học kinh tế chính trị xoay quanh điểm này”. Tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa được phản ánh ở lao động cụ thể bởi việc sản xuất cái gì, như thế nào là việc riêng của mỗi chủ thể sản xuất. Còn lao động trừu tượng phản ánh tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa, bởi lao động của mỗi người là một bộ phận nằm trong lao động xã hội cũng như trong hệ thống phân công lao động xã hội. Việc sản xuất và trao đổi phải được xem là một thể thống nhất trong nền kinh tế hàng hóa do yêu cầu của mối quan hệ này. Khi sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra không phù hợp với nhu cầu xã hội, hoặc khi mức lao động hao phí lao động cá biệt cao hơn mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được đã xuất hiện mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Khi đó, sẽ có một số hàng hóa không bán được. Nghĩa là có một số hao phí lao động cá biệt không được xã hội thùa nhận. Mâu thuẫn này được tạo ra nguy cơ khủng hoảng tiềm ẩn. 1.1.2.Khái niệm quy luật giá trị Quy luật giá trị là một trong những quy luật kinh tế quan trọng nhất của nền sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị xuất hiện ở bất kì đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quy luật này tác động và chi phối đến mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá. Chỉ khi người sản xuất tuân theo yêu cầu của quy luật giá trị thì mới có lợi nhuận, mới tồn tại và phát triển được, ngược lại sẽ bị thua lỗ và phá sản. 1.1.3.Yêu cầu của quy luật giá trị Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất và lưu thông hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, cụ thể là: 4

Trong sản xuất, hao phí lao động xã hội cần thiết phải phù hợp với hao phí lao động cá biệt. Vì trong nền sản xuất hàng hoá, vấn đề đặc biệt quan trọng là hàng hoá sản xuât ra có bán được không. Hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá của các chủ thể kinh doanh phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hôi có thể chấp nhận được thì mới có thể bán được hàng hóa. Hao phí lao động xã hội cần thiết cũng là một cơ sở để trao đổi hàng hóa, tức là tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá, chẳng hạn như hai hàng hoá vẫn được trao đổi ngang nhau mặc dù có giá trị sử dụng khác nhau nếu chúng có lượng giá trị bằng nhau. Đòi hỏi trên của quy luật là khách quan. Nó đảm bảo được sự công bằng, hợp lý cũng như sự bình đẳng giữa những người sản xuất hàng hoá. Những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo yêu cầu hay đòi hỏi của quy luật giá trị thông qua “mệnh lệnh” của giá cả thị trường. Tuy nhiên trong thực tế giá cả hàng hoá thường xuyên tách rời giá trị do sự tác động cuả nhiều quy luật kinh tế, nhất là quy luật cung cầu. Mặc dù vậy sự tách rời đó chỉ xoay quanh giá trị, C.Mác gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị. Trong vẻ đẹp này, trục là giá trị của hàng hóa và giá cả thị trường lên xuống quanh trục đó. Đối với mỗi hàng hoá, giá cả của nó có thể cao thấp trong từng điều kiện hoàn cảnh khác nhau, tuy nhiên khi xét trong một khoảng thời gian nhất định, tổng giá trị phải phù hợp với tổng giá cả của nó. Biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị là việc giá cả hàng hoá thường xuyên tách rời giá trị.

1.2. Vai trò của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường 1.2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá

5

Về thực chất việc điều tiết sản xuất của quy luật giá trị là điều chỉnh tự phát các yếu tố sản xuất. Ví dụ như: tư liệu sản xuất, sức lao động và tiền vốn từ ngành này sang ngành khác hay từ nơi này sang nơi khác. Thông qua sự biến động giá cả thị trường nó làm cho sản xuất hàng hoá của ngành này, nơi này được phát triển mở rộng, ngành khác nơi khác bị thu hẹp. Từ đó tạo ra sự cân đối tạm thời giữa các vùng và các ngành của một nền kinh tế hàng hoá. Quy luật canh tranh được thể hiện rõ ràng ở việc cung và cầu thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau, ăn khớp với nhau tuy nhiên từ trước đến nay nó chưa hề ăn khớp với nhau, ngược lại thường xuyên tách nhau ra và đối lập với nhau. Vì thế thị trường chia ra các trường hợp cơ bản sau đây: Giá cả bằng giá trị hàng hoá khi cung bằng cầu. Trường hợp này xảy ra một cách ngẫu nhiên và thường rất hiếm. Trường hợp giá cả cao hơn giá trị khi cung nhỏ hơn cầu, hàng hoá bán chạy vì thế mà lợi nhuận cao hơn. Những người đang sản xuất các loại hàng hoá này sẽ nhanh chóng mở rộng quy mô sản xuất và sản xuất hết công suất còn những người đang sản xuất hàng hoá khác muốn chuyển sang sản xuất loại hàng hoá này sẽ thu hẹp quy mô sản xuất cuả mình. Như vậy cung về loại hàng hoá này trên thị trường tăng lên do tư liệu sản xuất, sức lao động cũng như tiền vốn được chuyển vào ngành này tăng lên. Trường hợp giá cả nhỏ hơn giá trị khi cung lớn hơn cầu, hàng hoá ế thừa, bán không chạy, có thể lỗ vốn. Tình hình này bắt buộc những người đang sản xuất loại hàng hóa này phải thu hẹp quy mô sản xuất, chuyển sang sản xuất loại hàng hoá có giá cả thị trường lớn hơn. Chính vì thế mà tư liệu sản xuất, sức lao động và tiền vốn ở ngành hàng hoá này giảm đi một lượng nhất định. Việc điều chỉnh một cách tự phát khối lượng hàng hoá từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, tạo ra mặt bằng giá cả xã hội thực chất đó là điều tiết lưu thông của quy luật giá trị. Một khi giá trị hàng hoá thay đổi thì nó sẽ kéo theo điều kiện làm cho tổng khối 6

lượng hàng hoá có thể tiêu thụ được cũng thay đổi. Nhu cầu xã hội sẽ mở rộng thêm và trong những giới hạn nhất định, có thể thu hút những khối lượng hàng hoá lớn hơn nếu giá trị thị trường hạ thấp. Còn khi giá trị thị trường tăng lên thì nhu cầu xã hội về hàng hoá sẽ thu hẹp kéo theo đó là khối lượng hàng hoá tiêu thụ cũng sẽ giảm xuống. Cho nên nếu nói cung cầu điều tiết sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị thị trường thì trái lại chính giá trị thị trường điều tiết quan hệ cung cầu. Hay cấu thành trung tâm, chung quanh trung tâm đó những sự thay đổi trong cung cầu làm cho những giá cả thị trường phải lên xuống. “… Khi thực hiện quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá trong xã hội gồm những người sản xuất trao đổi hàng hoá cho nhau , sự canh tranh lập ra bằng cách đó và trong điều kiện nào đó một trật tự duy nhất và một tổ chức duy nhất có thể có cuả nền sản xuất xã hội. Chỉ có do sự tăng hay giảm giá hàng mà những người sản xuất hàng hoá riêng lẻ biết được rõ ràng là xã hội cần vật phẩm nào và với số lượng bao nhiêu”. (C.Mác: Sự khốn cùng của triết học, Nhà xuất bản Sự thật {8,19_20}) 1.2.2. Kích thích phát triển lực lượng sản xuất và tăng năng suất lao động Mỗi người sản xuất hàng hoá phải tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến vào sản xuất để giảm hao phí lao động cá biệt của mình cũng như giảm giá trị cá biệt của hàng hoá do mình sản xuất ra có như thế mới tránh bị phá sản, giành được ưu thế trong cạnh tranh và thu hút được nhiều lãi . Qua đó giúp cho kỹ thuật của toàn xã hội càng phát triển lên trình độ cao hơn, tạo điều kiện để năng suất càng tăng cao hơn. Đó được xem là quy luật luôn hất sản xuất ra con đường cũ và buộc sản xuất phải làm cho sức sản xuất của lao động khẩn trương hơn để thu được nhiều lợi nhuận. Quy luật đó không gì khác mà là quy luật nhất định giữ cho giá cả hàng hoá ngang bằng với chi phí sản xuất của chính hàng hoá đó. Nó nằm trong giới 7

hạn của những biến động chu kì của thương mại… Chẳng hạn như một người nào đó sản xuất ra hàng hóa được rẻ hơn, có thể bán được nhiều hàng hoá hơn do đó chiếm lĩnh được một địa bàn rộng hơn trên thị trường bằng cách bán hạ giá so với giá cả thị trường hiện hành để thu lại được nhiều lợi nhuận và chính việc làm đó có thể là mở đầu cho một hành động dần dần buộc những người khác cũng phải áp dụng các phương pháp để làm cho thời gian lao động xã hội cần thiết giảm xuống một mức thấp hơn và ít tốn kém hơn. 1.2.3. Phân hóa những người sản xuất thành người giàu, người nghèo Những người sản xuất cá thể trong xã hội đã có mầm mống của một phương thức sản xuất mới nào đó. Không có kế hoạch nào thống trị xã hội trong việc phân công tự phát. Vậy nên phương thức sản xuất ấy đã xác lập ra sự phân công và tổ chức theo kế hoạch, trong những công xưởng riêng lẻ. Sản xuất xã hội đã xuất hiện bên cạnh sản xuất của những người sản xuất cá thể. Trên thị trường sản phẩm của hai loại sản xuất đó cùng được bán, giá cả do đó cũng sấp xỉ nhau. Nhưng tổ chức có kế hoạch đương nhiên mạnh hơn nhiều so với sự phân công tự phát. Sản phẩm của những người sản xuất nhỏ, tản mạn bao giờ cũng đắt hơn so với sản phẩm của công xưởng dùng lao động xã hội. Sản xuất của những người sản xuất cá thể gặp thất bại từ ngành này đến ngành khác. Sự tác động cuả các quy luật kinh tế, nhất là quy luật giá trị tất yếu trong nền sản xuất hàng hóa dẫn đến kết quả: người sản xuất sẽ phát tài, làm giàu nếu có điều kiện sản xuất thuận lợi, nhiều vốn, có kiến thức và trình độ kinh doanh cao cùng với trang thiết bị kĩ thuật hiện đại. Ngược lại nếu không có các điều kiện trên, hoặc gặp rủi ro sẽ dễ dẫn đến mất vốn, phá sản. Vậy nên những người sản xuất kinh doanh được bình tuyển, đánh giá qua quy luật quá trị. Sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản cùng với sự bần cùng hoá của nhân dân là những hiện tượng ngẫu nhiên. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá dựa trên sự phân công lao động xã hội thì đó là điều không thể tránh 8

khỏi. Bởi vì thị trường chẳng qua chỉ là biểu hiện của sự phân công đó và của sản xuất hàng hoá nên vấn đề thị trường hoàn toàn bị gạt. Một khi nền kinh tế xã hội đã xây dựng trên sự phân công và trên hình thức hàng hoá của sản phẩm, thì sự tiến bộ về kỹ thuật không thể không làm cho chủ nghĩa tư bản tăng cường và mở rộng thêm. Vậy nên sự phát triển của chủ nghĩa tư bản không những là có thể có mà còn là sự tất nhiên.

Phần 2: Kinh tế thị trường, biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường. Thực trạng nền kinh tế nước ta và kết quả của việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường Việt Nam 2.1. Kinh tế thị trường 9

2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường “Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, là một hình thức tổ chức sản xuất xã hội hiệu quả nhất phù hợp với trình độ phát triển của xã hội hiện nay” (Bộ Giáo dục và đào tạo (2019). Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.38) 2.1.2. Các đặc điểm của nền kinh tế thị trường Tính tự chủ cao có ở các chủ thể. Một thành phần của nền kinh tế là chủ thể kinh tế có quan hệ độc lập với nhau. Các chủ thể tự quyết định lấy hoạt động của mình mà không cần ngờ đến các chủ thể khác. Tính phong phú của hàng hóa. Bất cứ hàng hoá nào có nhu cầu thì sẽ có người sản xuất do các chủ thể kinh tế đều tự quyết định lấy hoạt động của mình. Điều tạo nên sự phong phú của hàng hoá trong nền kinh tế thị trường là do nhu cầu của con người là vô cùng phong phú và đa dạng. Cạnh tranh là hoạt động tất yếu xảy ra trong kinh tế thị trường. Người sản xuất sẽ tập trung vào những loại hàng hóa có nhu cầu lớn. Do đó khi có quá nhiều người cùng sản xuất giống nhau một mặt hàng thì sự cạnh tranh là không thể tránh được. Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở và vô cùng đa dạng vậy nên không chỉ có sự giao lưu rộng rãi ở thị trường một nước mà còn là giữa các thị trường với nhau. Không một chủ thể kinh tế nào quyết định được giá cả bởi lẽ giá cả hình thành ngay trên thị trường. Cung và cầu của trị trường quyết định đến giá cả của hàng hóa. Nhờ vào sự điều tiết của cơ chế thị trường mà nền kinh tế thị trường có thể tự hoạt động được. Đó là các quy luật kinh tế khách tác động, phối hợp hoạt động của toàn bộ thị trường thành một hệ thống thống nhất chẳng hạn như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, lưu thông tiền tệ, cạnh tranh… 2.2. Sự biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường 10

Quy luật giá trị thể hiện chủ yếu trong việc hình thành giá cả của hàng hóa. Giá cả là biểu hiện của giá trị bằng tiền. Để có căn cứ kinh tế giá cả phải lấy giá trị làm cơ sở như vậy mới có tác dụng kích thích năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, hạ giá thành của sản phẩm. Cơ chế hoạt hoạt động của quy luật giá trị được nhà nước sử dụng để đưa giá cả trở về giá trị. Thông qua chính sách giá cả, Nhà nước vận dụng quy luật giá trị nhằm: Thứ nhất đó là kích thích lực lượng sản xuất phát triển. Đối với xí nghiệp quốc doanh việc xây dựng một hệ thống giá bán buôn để đưa chế độ hạch toán kinh tế đi vào quy củ và có căn cứ vững chắc là chủ yếu. Thứ hai là điều tiết và lưu thông hàng tiêu dùng. Trong chế độ kinh tế thị trường, tổng khối lượng và cơ cấu hàng tiêu dùng do kế hoạch lưu chuyển hàng hoá quyết định căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thu nhập bằng tiền của nhân dân và mức tăng thu nhập quốc dân, nhu cầu về hàng tiêu dùng của người dân trong điều kiện sức mua không đổi. Do đó nếu giá cả một loại hàng nào đó giảm xuống thì ngay lập tức lượng hàng tiêu thụ sẽ tăng lên và ngược lại. Để ảnh hưởng đến khối lượng tiêu thụ một số loại hàng nào đó nhà nước có thể quy định giá cả cao hay thấp nhằm làm cho nhu cầu và mức tăng của sản xuất về một số hàng tiêu dùng ăn khớp với kế hoạch lưu chuyển hàng hoá của Nhà nước. Thứ ba là thông qua chính sách giá cả, việc quy định hợp lý các tỷ giá, Nhà nước phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các ngành nhằm phục vụ cho yêu cầu năng cao đổi sống của nhân dân lao động. Cuối cùng, nhận thức và vận dụng quy luật giá trị nói rộng ra là biết sử dụng các đòn bẩy của kinh tế hàng hoá như tiền lương, giá cả, lợi nhuận ... để tổ chức và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.

11

Qua đây nói lên trong nền kinh tế thị trường có sự cần phải kết hợp kế hoạch với thị trường, lấy cải sau bổ sung cho cái trước. Quá trình kết hợp đó là một quá trình tự giác vận dụng quy luật giá trị và quan hệ thị trường như cũng là một quá trình phát huy những tác dụng tích cực của quy luật giá trị là một công cụ để xây dựng các mặt kinh tế, kích thích cải tiến kỹ thuật, gia tăng năng suất lao động, hạ giá trị hàng hoá ngày, đảm bảo tốt hơn cho nhu cầu đời sống của con người. Phải đồng thời phát huy tác dụng tích cực của quy luật giá trị và ngăn chặn những ảnh hưởng những tiêu cực của nó đối với việc quản lý kinh tế. Trong nền kinh tế quy luật giá trị tồn tại một cách khách quan. Tự giác sử dụng tác dụng tích cực và hạn chế các tác dụng tiêu cực của quy luật giá trị là nhờ vào việc nắm vững tác dụng chủ đạo của các quy luật kinh tế. Nhà nước đã năng cao dần khả năng kế hoạch hoá kinh tế cũng như trình độ công tác. Trung ương Đảng đã nhấn mạnh: “Về cơ bản chúng ta đã nắm được nội dung, tích chất và tác dụng của quy luật giá trị đối với các thành phần kinh tế khác nhau trong hai lĩnh vực sản xuất và phân phối khác nhau về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng và đã vận dụng nó phục vụ các nhiệm vụ chính...


Similar Free PDFs