Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam PDF

Title Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Course T ư tưởng H ồ Chí Minh
Institution Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Pages 5
File Size 125.2 KB
File Type PDF
Total Downloads 69
Total Views 275

Summary

Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt NamTính tất yếu của Đảng Cộng sản Việt NamHồ Chí Minh là người trung thành với học thuyết Mác - Lênin, trong đó có lý luận của V.Iênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, đồng thời vận dụng sángtạo và phát triển lý luận đó vào điều kiện cụ th...


Description

Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Tính tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh là người trung thành với học thuyết Mác - Lênin, trong đó có lý luận của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, đồng thời vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trên thế giới, nói chung, sự ra đời của một đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Còn đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Như vậy, so với học thuyết Mác - Lênin thì Hồ Chí Minh đưa thêm vào yếu tố thứ ba nữa, đó là phong trào yêu nước. Quan điểm của Hồ Chí Minh trên đây là hoàn toàn phù hợp với xã hội thuộc địa và phong kiến như Việt Nam, khi mọi giai cấp, tầng lớp, trừ tư sản mại bản và đại địa chủ, còn đều có mâu thuẫn dân tộc. Đó là mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với các thế lực đế quốc và tay sai. Trong thực tế, những phong trào đấu tranh của công nhân đã kết hợp được rất nhuần nhuyễn với phong trào yêu nước. Một số người Việt Nam yêu nước lúc đầu đi theo xu hướng dân chủ tư sản, nhưng qua thực tế được sự tác động của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã dần dần tiến theo xu hướng cộng sản, rõ nhất là từ năm 1925 trở đi. Hàng loạt tổ chức yêu nước ra đời, trong đó nổi rõ nhất là tổ chức Hội Việt Nam Cách mệnh Thanh niên do Hồ Chí Minh lập ra. Đấu tranh giai cấp quyện chặt với đấu tranh dân tộc. Thật khó mà tách bạch mục tiêu cơ bản giữa các phong trào đó, tuy lực lượng, phương thức, khẩu hiệu đấu tranh có khác nhau, nhưng mục tiêu chung là: Giành độc lập, tự do cho dân tộc Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng trước hết phải có “đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền

mới chạy”. Đầu thế kỷ XX, trước thách đố lịch sử đặt ra là giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, nhiều lực lượng, tổ chức theo các ý thức hệ khác nhau đã đứng lên cứu nước, giải phóng dân tộc nhưng cuối cùng đều thất bại. Thất bại đó đặt ra nhu cầu tất yếu phải

có một chính đảng đủ năng lực hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, có khả năng và uy tín tập hợp lực lượng dân tộc và đoàn kết quốc tế, thì mới gánh vác được trọng trách lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930 đã đáp ứng trúng nhu cầu lịch sử, khắc phục được những sai lầm, thiếu sót của các phong trào yêu nước trước đó. Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị, nắm lấy sứ mệnh lãnh đạo dân tộc, lôi cuốn không ít nhà yêu nước tiến bộ từ bỏ lập trường giai cấp của mình và tự nguyện chuyển sang lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng sau khi được giáo dục, giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng. Các lực lượng chính trị khác hoặc thối chí, hoặc thoái hóa, thậm chí đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc, thỏa hiệp và đầu hàng thực dân đế quốc, không những mất dần uy tín chính trị, mà còn bị nhân dân xa lánh; chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đủ năng lực và phẩm chất để lãnh đạo, được nhân dân tuyệt đối tin tưởng và đi theo làm cách mạng tự giải phóng. Từ khi ra đời đến nay, năng lực lãnh đạo và uy tín của Đảng đã được khẳng định trong suốt tiến trình cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu lịch sử của cách mạng. Thực tiễn đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Khẳng định đảng cộng sản “như người cầm lái” cho con thuyền là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt cả quá trình cách mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu, vai trò lãnh đạo của Đảng cũng là một tất yếu – điều đó xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam. Thực tế quá trình cách mạng Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đã nói lên rằng, sự bảo đảm, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt tiến trình phát triển của đất nước theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội là một nguyên tắc vận hành của xã hội Việt Nam từ khi có Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội với vai trò, vị trí là một đảng duy nhất cầm quyền, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về quyết định của mình. Bản chất của đảng cầm quyền là đảng lãnh đạo chính quyền và nhờ đó bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân làm chủ nhà

nước, làm chủ xã hội. Vấn đề cốt yếu đối với một đảng cộng sản cầm quyền là cầm quyền một cách khoa học, dân chủ và tuân theo pháp luật trên cơ sở giữ vững sự trong sạch, vững mạnh. Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước nhưng không đồng nhất quyền lực của đảng với quyền lực nhà nước. Quyền lực của đảng là quyền lực chính trị, thể hiện ở năng lực trí tuệ đề ra cương lĩnh, đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng suốt, được thể chế hóa thành hiến pháp, pháp luật; lựa chọn, giới thiệu các đảng viên ưu tú, có uy tín để nhân dân bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước, thông qua đó, hiện thực hóa ý chí của Đảng bằng tất cả sức mạnh của bộ máy nhà nước. Quyền lực nhà nước về hình thức là quyền lực công, nhưng về bản chất vẫn là quyền lực chính trị, bởi bất cứ lực lượng chính trị nào muốn thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình cũng đều phải tìm cách giành lấy chính quyền, sử dụng sức mạnh nhà nước phục vụ cho mục tiêu chính trị của mình. Chính điều này quy định nhà nước mang chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội (công quyền), bảo đảm sự thống nhất giữa hai chức năng này là cơ sở cho giữ vững được bản chất cách mạng của nhà nước và không ngừng phát huy dân chủ trong xã hội, bảo đảm nhà nước của dân, do dân và vì dân.của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên và quan hệ gắn bó máu thịt giữa đảng với nhân dân Địa vị cầm quyền của Đảng ta được hiến định, thể hiện ở nội dung cầm quyền, trách nhiệm của Đảng trong hệ thống chính trị, trong mối quan hệ giữa Đảng với các thiết chế chính trị, thiết chế chính trị - xã hội: Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và với toàn thể xã hội. Nội dung cầm quyền của Đảng được thể hiện trên các lĩnh vực đời sống xã hội, ở sứ mệnh trọng đại của Đảng đối với quốc gia - dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng, phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa vì sự tự do, phát triển của mỗi con người. Hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là yêu cầu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mặc dù Hiến pháp năm 1946 không quy định về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, song vai trò của Đảng luôn thể hiện xuyên suốt nội dung Hiến pháp và trong thực tiễn cách mạng. Hiến pháp năm 1959 đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Lời nói đầu: “Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng Lao động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới”;

“Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận dân tộc thống nhất, nhất định sẽ giành được những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà”. Điều 4 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lê-nin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 (gọi tắt là Hiến pháp năm 1992) thể chế hóa đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, kế thừa Hiến pháp năm 1980 về hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều 4 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Kế thừa Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Điều 4 Hiến pháp năm 2013, cùng với khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, đã bổ sung, phát triển những nội dung quan trọng về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; khẳng định và làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Khoản 2, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một nội dung mới, thể hiện rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân: “Ðảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Những quy định bổ sung này không chỉ tiếp tục khẳng định bản chất cách mạng, vai trò tiên phong của Đảng, mà đây là lần đầu tiên chế định hóa trách nhiệm chính trị - pháp lý của Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định

của mình. Cả hai chiều quan hệ: Đảng với nhân dân và nhân dân với Đảng được xác định một cách biện chứng, bản chất là giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng cầm quyền và cơ sở xã hội của nó.

Kết luận Hiệu quả lãnh đạo của Đảng là bằng chứng sinh động bác bỏ mọi luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền của Đảng; khẳng định tính tất yếu là dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam cần có Đảng lãnh đạo để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích chiến lược đất nước và thực hiện khát vọng tự cường dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện hiện nay, vấn đề đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội càng có tầm quan trọng đặc biệt, cấp thiết hơn bao giờ hết gắn với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền của Đảng, làm cho hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được tăng cường, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy đầy đủ, nhất là huy động, lôi cuốn nhân dân tham gia xây dựng Đảng và quản lý nhà nước, thực hiện tốt hơn việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững....


Similar Free PDFs