Baring bank FOR STUDEBT PDF

Title Baring bank FOR STUDEBT
Author Nguyễn Minh Anh
Course Money and Banking
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 25
File Size 1.1 MB
File Type PDF
Total Downloads 394
Total Views 911

Summary

Download Baring bank FOR STUDEBT PDF


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HỒ CHÍ MINH VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC  

Bộ Môn: Thị Trường Tài Chính

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ NGÂN HÀNG BARINGS

GVHD: TS. Hồ Viết Tiến Nhóm : Nhóm 6- Lớp Ngân hàng Đêm 4- K21

Danh sách Nhóm 6:

1. 2. 3. 4.

Huỳnh Như Ngọc Trần Bảo Nguyên Phan Thanh Thủy Trương Thị Mỹ Xuyên

Tp.HCM, tháng 12 năm 2012

Nhóm 6- NH Đêm 4-K21

TS. Hồ Viế t Tiế n

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ NGÂN HÀNG BARINGS

CHƯƠNG 1: CÂU CHUYỆN VỀ NGÂN HÀNG BARINGS Chỉ trong vòng có mộ t tuần l ễ , Nick Leeson, một nhân viên ngân hàng Barings đã làm tiêu tan trong mây khói gần 1 tỷ euros, bằng s ố tiề n mà ngân hàng này tích luỹ hàng năm trong suốt gần 250 năm thành lập đến này. Sự kiện này đã gây chấn động hệ thống ngân hàng nước Anh vì Barings là một ngân hàng danh tiế ng và r ất có uy tín tại Anh, được thành lập vào năm 1762. Nhiề u cuộc phân tích sự việc đã được tiến hành để tìm ra các bài họ c kinh nghiệ m cho hoạt động kinh doanh ngân hàng ở châu Âu. Lúc đó, Peter Barings, 59 tuổi, thế chân người anh ruộ t nắm cương vị giám đố c Ngân hàng Baring, đang rất thành công trên thị trường tài chính ngân hàng châu Âu. Cũng năm đó, Nick Leeson (sinh ngày 25 tháng Hai năm 1967 tại Watford- Anh Quốc) được bổ nhiệm phụ trách Chi nhánh của Barings tại Singapore, mộ t vị trí được đánh giá là cũng rất quan trọng. Điều trái ngược trong đợt bổ nhiệm này là Peter Barings t ố t nghiệp ở trường Eton, một trường chỉ dành riêng con nhà giàu; còn Nick Leeson mặc dù t ố t nghiệp ở Cambridge nhưng đã từng trượt phổ thông tại một trường trung học ngoại ô London và “dốt đặc” về môn toán như mọi người thường nói. Thế nhưng, vào giữa thập kỷ 90, chính mộ t mình Nick Leeson l ại thu về 30% tổng s ố lợi nhuận của ngân hàng Barings. Điều này lúc đó được đánh giá là một nỗ lực phi thường! Với ngân hàng Barings, kinh doanh theo lối cũ chưa bao giờ đem lại được số lợi nhuận lớn như vậy. Và lúc đó, nhân viên ngân hàng Nicolas Leeson hoạt động trên thị trường dẫn xuất có thể bán lại với giá cao hơn 200 lần. Thị trường này cũng được đánh giá là rất nhiề u r ủi ro. Chính bản thân Peter Barings đã phải thốt ra: “Thị trường mới này cần được kiểm tra và làm chủ, đó là điều chúng tôi đang làm ở đây”. Tuy nhiên, trên thực t ế Barings ở London nhắm mắt làm ngơ, để mặc cho Nick Leeson muốn làm gì thì làm. Nick Leeson nắm cả khâu kinh doanh lẫn khâu kiể m soát, thật là một điề u hiế m thấy trong kinh doanh ngân hàng. Bài học kinh nghiệ m t ừ ngân hàng Barings

Trang 2

Nhóm 6- NH Đêm 4-K21

TS. Hồ Viế t Tiế n

Sự việc bắt đầu tồ i t ệ sau vụ động đất ở Nhật Bản. Chỉ số chứng khoán Nikkei t ại Nhật Bản bất ngờ s ụt thấp trong khi Nick Leeson lại đặt cược là lên. Lẽ ra phải dừng ngay lại nhưng Nick Leeson vẫn tiế p t ục mua vào các hợp đồng, mỗi hợp đồng lên đến 180 nghìn bảng Anh khiế n t ổ ng số tiền tung ra lên t ới 21 triệ u euros. Cách làm này c ủa Nick Leeson chẳng khác gì hành động của một “con bạc đang khát nước”. Một ngày sau đó, Peter Barings bị chuông điện thoại réo vang đánh thức. Từ đầu dây bên kia người ta báo là Nick Leeson đã biến mất. Chiế n dịch che dấu sự thật ở Ngân hàng Barings vẫn tiếp tục được tiến hành. Vào thời gian ở London đang diễn ra cuộ c họ p thứ hai tại trụ s ở Ngân hàng Barings, Peter Barings đề nghị nhường chức chủ tịch Ngân hàng Barings cho ai đó có thể cứu giúp. Thống đốc Ngân hàng Anh từ chối ký séc cho Barings vay. Sau đó một tháng, Deustche Bank đã đề nghị mua lại Barings với giá 1 t ỷ bảng Anh. Đến lúc này, chẳng còn cần đề cập đế n vấn đề này với ai hết. Barings chỉ là mộ t trong vô số những vụ bê bố i tài chính của các ngân hàng trên thế giới. Lòng tin của người tiêu dùng vào ngân hàng giảm thì các ngân hàng cũng khó có thể tồn tại được. Mặc dù chịu s ức ép r ất l ớn trong việ c cải tổ , nhiề u ngân hàng l ớn trên thế giới vẫn rất “ung dung” coi mình đang “ngồi chiếu trên” với số lượng tài sản khổ ng l ồ. Điều này thật là nguy hiể m, bởi có l ẽ nhiều người cũng biế t r ằng Barings đã là mộ t trong những ngân hàng l ớn nhất nước Anh nhưng khi lâm vào tình trạng nguy kịch thì “cây đại thụ” này cũng sụp đổ rất nhanh.

Bài học kinh nghiệ m t ừ ngân hàng Barings

Trang 3

Nhóm 6- NH Đêm 4-K21

TS. Hồ Viế t Tiế n

CHƯƠNG 2: CÁCH THỨC LEESON LÀM SỤP ĐỔ NGÂN HÀNG BARINGS Các hoạt động của Nick Leeson trên thị trường chứng khoán giao sau tại Nhật Bản và Singapore, đã dẫn t ới s ự s ụp đổ của những ông chủ, mà Baring là một trường hợp điển hình. Các điểm chính được trình bày lại dưới đây sẽ giúp chúng ta có mộ t cái nhìn t ổ ng quát về nội dung chính của bài nghiên cứu này- đó là sự cần thiế t của các chính sách, quy trình thủ tục và các hệ thống cho việc quản lý thận tr ọ ng các hoạt động phái sinh. Barings sụp đổ vì nó không thể đáp ứng các nghĩa vụ thương mại rất l ớn, mà Leeson t ạo ra dưới tên của ngân hàng. Khi ngân hàng Barings bắt đầu hoạt động quản lý tài sản vào ngày 27 tháng Hai năm 1995, thông qua Leeson, đứng đầu bộ phận kinh doanh hợp đồng giao sau trên chỉ s ố chứng khoán và lãi suất Nhật Bản với tổng giá trị là 27 t ỷ USD: gồ m 7 t ỷ USD trên hợp đồng chỉ số chứng khoán Nikkei 225 và 20 t ỷ USD vào giao dịch trái phiế u chính phủ Nhật Bản (JGB) và Euroyen. Leeson cũng đã bán 70.892 hợp đồng quyền chọn bán và quyề n chọn mua chỉ số Nikkei với tổng giá trị danh nghĩa là 6,68 tỷ USD. Khối lượng giao dịch danh nghĩa của các vị thế này là rất hấp dẫn, tầm vóc của chúng là đáng kinh ngạc khi so sánh với các ngân hàng có vốn đầu tư khoảng 615 triệu USD. Khối lượng giao dịch của các vị thế này cũng được lưu ý trong tháng một và tháng hai năm 1995, khi Barings Tokyo và London chuyể n 835 triệu USD đến văn phòng Singapore của nó để đáp ứng nghĩa vụ ký quỹ trên thị trường SIMEX.  Những hoạt động được báo cáo (Một sự tưởng tượng): Sự gia tăng về vị thế của chỉ s ố Nikkei biế n mất sau trận động đất ở Kobe vào 17 tháng Mộ t. Điều này được phản ánh trong hình 10.1 - biểu đồ cho thấy rằng vị thế của Lesson đã đi theo hướng ngược lại với chỉ số Nikkei – khi thị trường chứng khoán Nhật Bản sụt giảm thì vị thế của Leeson l ại càng tăng lên. Trước khi xảy ra trận động đất ở Kobe, chỉ số thị trường của Nikkei nằm trong khoảng từ 19.000 đến 19.500, khi đó Leeson đã mua khoảng 3.000 hợp đồng giao sau trên Sàn giao dịch chứng khoán Osaka (tương đương với 6. 000 hợp đồng trên thị trường SIMEX vì số lượng giao dịch của SIMEX bằng mộ t nửa quy mô với OSE.) Mộ t vài ngày sau tr ận động đất, Leeson bắt đầu một

Bài học kinh nghiệ m t ừ ngân hàng Barings

Trang 4

Nhóm 6- NH Đêm 4-K21

TS. Hồ Viế t Tiế n

chiến lược mua vào tích cực với đỉnh điểm đạt 19.094 giao dịch khoảng một tháng sau ngày 17 tháng Hai.

Hình 10.1 Vậy nguyên nhân tại sao Leeson lại tăng lượng mua Hợp đồng giao sau trong khi chỉ s ố Nikkei s ụt giảm sau trận động đất? Trả lời câu hỏi này đồng nghĩa với việ c giải thích cơ chế lỗ mà Leeson gây ra cho ngân hàng Barings. Nhìn bên ngoài, có thể thấy chiến lược giao dịch chính của Leeson là kinh doanh Abritrage chỉ số Nikkei 225 giữa sàn SIMEX (Singapore) và sàn OSE (Osaka- Nhật Bản). Tài khoản giao dịch của Baring tại Nhật là 92000, tại Singapore là 88888. Nhưng thực ra, Leeson đồng thời thực hiện mua và bán hợp đồng giao sau tại Singapore, mua và bán hợp đồng giao sau tại Osaka. Số lượng hợp đồng Leeson bán ra ít hơn so với lượng Leeson mua vào. Số lượng hợp đồ ng Leeson mua vào tăng lên là để đáp ứng cho việ c Leeson bán hợp đồng quyền chọn khi người mua thực hiện quyề n chọn của mình. Có thể nói thêm r ằng, Leeson thực hiện được việ c này mộ t phần là do không có s ự liên kết giữa thị trường SIMEX và OSE.  Những vị thế giao dịch chưa báo cáo (Thực tế) Bài học kinh nghiệ m t ừ ngân hàng Barings

Trang 5

Nhóm 6- NH Đêm 4-K21

TS. Hồ Viế t Tiế n

Bảng 10.1 đưa ra một bảng tổng hợp các giao dịch trái quy định mà Leeson đã báo cáo. Điểm đáng chú ý nhất ở Bảng 10.1 chỉ ra một thực tế rằng Leeson đã bán 70.892 quyền chọn chỉ số Nikkei 225 với trị giá khoảng 7 tỷ USD mà London Barings không hề hay biết, với giao dịch đỉnh điể m trong hai tháng là vào tháng 11 và tháng 12 năm 1994, Leeson đã bán 34.400 quyền chọn.

Bảng 10.1

Bài học kinh nghiệ m t ừ ngân hàng Barings

Trang 6

Nhóm 6- NH Đêm 4-K21

TS. Hồ Viế t Tiế n

Theo cách nói của những người trong nghề thì Leeson đã bán hợp đồng chứng khoán hai chiều (Straddle), cụ thể là ông ấy đã bán cả quyền chọn mua và quyền chọn bán với cùng mức giá thực hiệ n và cùng kỳ hạn thanh toán. Leeson kiếm được khoản thu từ phí bán hơn 37.000 quyền chọn trong mộ t khoảng 14 tháng. Những giao dịch như vậy chỉ đem lại lợi nhuận khi chỉ số Nikkei 225 giao dịch ở mức giá thực hiện quyền chọn vào ngày đáo hạn của cả quyền chọ n mua và quyền chọn bán. Người bán sau đó sẽ được hưởng tr ọ n phí thu được từ việc bán các quyề n chọn (Hình 10.2 minh họa sơ đồ về lợi nhuận và thua l ỗ của giao dịch bán hợp đồng chứng khoán hai chiề u). Nế u chỉ số Nikkei giao dịch gần giá thực hiệ n quyề n chọn vào ngày đáo hạn thì giao dịch vẫn có thể được lợi nhuận vì phí bảo hiểm thu được nhiều hơn , bù đắp được sự tổn thất nhỏ từ quyề n chọn mua (nế u thị trường Tokyo tăng lên) hoặc quyền chọn bán (nếu chỉ số Nikkei giảm xuố ng).

Hình 10.2. Lãi- l ỗ từ vị thế Short Straddle Bài học kinh nghiệ m t ừ ngân hàng Barings

Trang 7

Nhóm 6- NH Đêm 4-K21

TS. Hồ Viế t Tiế n

Giá thực hiệ n của hầu hế t các vị thế Straddle của Leeson dao động từ 18.500 đến 20.000. Do đó, Leeson chỉ cần chỉ số Nikkei 225 tiế p t ục giao dịch như trước tr ận động đất ở Kobe là ở mức 19.000 - 20.000, nếu anh ta có đủ tiền để giao dịch các quyề n chọ n này. Tr ận động đất Kobe đã làm tiêu tan những chiến lược quyền chọn của Leeson. Vào ngày tr ận động đất xảy ra, ngày 17 tháng Một, chỉ số Nikkei 225 ở mức 19.350. Tuần đó kết thúc ở mức hơi thấp, đạt được 18.950 điểm và do đó, vị thế Straddle của Leeson đã bắt đầu lung lay, báo động. Các quyền chọn mua mà Leeson đã bán đã bắt đầu mất giá nhưng các quyền chọn bán lại bắt đầu có giá trị với những người đã mua nó nếu chỉ số Nikkei tiế p t ục giảm. Thua l ỗ của Leeson trên các quyề n chọn bán là không giới hạn và hoàn toàn phụ thuộ c vào chỉ s ố Nikkei vào ngày đáo hạn, trong khi l ợi nhuận trên các quyền chọn mua lại bị giới hạn ở mức phí quyền chọn thu được. Đây là điểm mấu chốt để hiểu hành động Leeson bởi vì trước trận động đất ở Kobe, việ c thực hiện trái quy định của anh ta, t ức là tài khoản '88888 ' thể hiện vị thế giao sau thất bại đối chỉ s ố Nikkei 225. Tuy nhiên, vào thứ Sáu ngày 20 tháng 1, ba ngày sau tr ận động đất, Leeson đã mua 10.814 hợp đồng vào tháng 3 năm 1995. Không ai chắc chắn liệu anh ta đã mua các hợp đồng này hay không bởi vì anh ta nghĩ thị trường đã qua phản ứng với cú số c Kobe hay vì anh muốn mua vào để vực dậy chỉ số Nikkei để bảo vệ vị thế bán phát sinh t ừ giao dịch Straddle. (Leeson không t ự phòng hộ vị thế quyền chọn của mình trước tr ận động đất và mua hợp đồng giao sau chỉ số Nikkei 225 sau trận động đất thì nó không thể phố i hợp như là mộ t phần của một chiến lược phòng hộ chậm trễ sau khi ông nên bán ra hơn là mua vào). Khi chỉ s ố Nikkei giảm 1.000 điể m, chỉ còn 17.950 vào thứ Hai ngày 23 Tháng 1 năm 1995, Leeson thấy mình thấy thiệ t hại ngay tại vị thế mua tương lai vào hai ngày trước và phải đối mặt với khoản thiệ t hại không giới hạn từ việ c bán các quyề n chọn bán. Không thể quay tr ở l ại. Leeson đã cố gắng để đảo ngược tình thế bất lợi sau s ự kiện Kobe đang tràn ngập thị trường chứng khoán Nhật Bản. Ngày 27 Tháng 1, tài khoản '88888' cho thấy mộ t vị thế mua 27.158 hợp đồng vào Tháng 3 năm 1995. Trong ba tuần kế tiế p, Leeson đã tăng gấp đôi vị thế này lên mộ t mức cao hơn ngày 22 tháng 2, đạt 55.206 của hợp đồng vào Tháng 3 1995 và 5640 hợp đồng vào Tháng 6 năm 1995. Những thất bại l ớn t ại thị trường chứng khoán Nhật Bản, sau trận động đất, càng làm cho thị trường nhiề u biến động. Điều này đã không giúp cho vị thế quyề n chọn bán của Leeson - một người bán các quyề n chọn muốn ít sự biến động để giá tr ị của các quyề n chọn tăng lên. Vớ i biến động tăng Bài học kinh nghiệ m t ừ ngân hàng Barings

Trang 8

Nhóm 6- NH Đêm 4-K21

TS. Hồ Viế t Tiế n

lên, quyề n chọn bán của Leeson s ẽ bị thiệ t hại ngay cả khi thị trường chứng khoán Tokyo không sụt giảm. Leeson đã thực hiệ n các giao dịch trái quy định gần như kể từ khi ông bắt đầu giao dịch tại Singapore vào năm 1992. Ông mất vị trí độc quyền trên SIMEX trên cả hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn (Sự ủy quyề n của London cho Leeson chỉ cho phép ông thực hiệ n vị thế khi nó là một phần của 'chuyển đổi' và thực hiện theo l ệ nh của khách hàng . Điều đó cũng có nghĩa là Leeson không bao giờ được phép bán các quyề n chọn). Leeson mất tiề n từ các giao dịch trái phép của ông hầu như từ những ngày đầu. Tuy nhiên, ông đã được thừa nhận ở London như là một người kinh doanh chênh l ệ ch giá turbo tuyệ t vời, và mộ t mình ông đã đóng góp một nửa l ợi nhuận năm 1993 cho Barings Singapore và mộ t nửa toàn bộ l ợi nhuận năm 1994 của ngân hàng. Sự thiế u hụt lớn cần được bù đắp giữa thực tế và tưởng tượng được minh họ a trong Bảng 10.2 không chỉ cho thấy s ự nghiêm trọ ng của thiệt hại gần đây của Leeson mà thực tế là ông luôn luôn bị thua lỗ . Chỉ tính riêng năm 1994, Leeson đã làm Barings tổn thất 296 triệ u USD, nhưng những ông chủ khi đó lại nghĩ rằng Leeson đã kiếm cho họ được 46 triệu USD; do đó, họ chấp nhận trả thêm cho anh ta mộ t mức tiền thưởng là 720.000 USD.

Bảng 10.2

Bài học kinh nghiệ m t ừ ngân hàng Barings

Trang 9

Nhóm 6- NH Đêm 4-K21

TS. Hồ Viế t Tiế n

 Giao dịch chéo: Làm thế nào mà Leeson có thể l ừa dối tất cả mọi người xung quanh? Làm thế nào ông có thể cho thấy l ợi nhuận trong hoạt động “chuyển đổi” của mình khi ông đã thực sự thua l ỗ ? Làm thế nào ông có thể tạo ra mộ t sổ sách giả tạo khi ông ở vị thế mua chỉ số Nikkei và vị thế bán về lãi suất của Nhật Bản? Ban Giám sát Ngân hàng (Bobs) của Ngân hàng Anh đã tiến hành mộ t cuộc điều tra về s ự s ụp đổ của Barings tin r ằng "Công cụ được s ử dụng để thực hiện việ c l ừa dối là giao dịch chéo." Một giao dịch chéo là mộ t giao dịch được thực hiệ n trên sàn giao dịch bởi một nhà môi giới vừa là người mua vừa là người bán. Nế u một nhà môi giới có l ệ nh mua và lệnh bán phù hợp từ hai tài khoản khách hàng khác nhau cho các hợp đồng tương tự và ở cùng mộ t mức giá, thì môi giới ấy được phép thực hiệ n các giao dịch thỏa thuận bằng cách kết hợp cả hai tài khoản khách hàng của mình. Tuy nhiên, nhà môi giới chỉ có thể làm điều này sau khi đã thực hiện công khai giá đưa ra và cung cấp mức giá trong “rỗ giá” và không có thành viên nào khác đưa giá lên. Theo quy định của SIMEX, nhà môi giới phải công khai giá ba lần. Giao dịch chéo phải được thực hiệ n theo giá thị trường. Leeson đã nhập vào mộ t khối lượng đáng kể các giao dịch chéo giữa tài khoản '88888' và tài khoản '92000' (TK giao dịch Chứng khoán Nikkei và Kinh doanh Arbitrage JGB của Barings tại Nhật Bản), tài khoản '98007' (TK Kinh doanh Arbitrage JGB của Barings London) và tài khoản '98008' (TK Kinh doanh Arbitrage Euroyen của Barings London). Sau khi thực hiệ n các giao dịch chéo này, Leeson s ẽ hướng dẫn các nhân viên của mình phá vỡ tổng s ố hợp đồng sang các giao dịch khác, và thay đổi giá giao dịch để tạo ra mức lợi nhuận được ghi có vào các tài khoản „'chuyển đổi' nói trên và thiệ t hại thì sẽ được tính vào tài khoản '88888 '. Vì vậy trong khi các giao dịch chéo trên Sàn giao dịch xuất hiện với mặt là chân thực và thỏa các quy định của Sàn Giao dịch, s ổ sách và chứng từ của BFS, duy trì trênhệ thống Contac- mộ t hệ thống thanh toán được s ử dụng rộ ng rãi bởi các thành viên SIMEX, phản ánh các cặp giao dịch tăng lên với số lượng giống nhau ở cùng mức giá và không có s ự liên quan, quan hệ nào với những người thực hiện trên sàn. Ngoài ra, Leeson s ẽ tham gia vào các giao dịch chéo của các gói có kích thước nhỏ hơn so vớ i ở trên, nhưng khi nhập vào hệ thống Contac, ông s ẽ s ắp xế p mức giá được s ửa đổ i, một lần nữa cho phép l ợi nhuận được ghi có vào tài khoản chuyển đổi và thiệ t hại được tính vào tài khoản '88888 '. Bài học kinh nghiệ m t ừ ngân hàng Barings

Trang 10

Nhóm 6- NH Đêm 4-K21

TS. Hồ Viế t Tiế n

Bảng 10.3 dưới đây là một ví dụ về cách Leeson đã xử lý số liệu trên s ổ sách để thể hiệ n lợi nhuận trên hoạt động chuyển đổi của Baring.

Bảng 10.3 Các báo cáo của Bobs ghi chú rằng: "Trong mỗi trường hợp, các mục trong hệ thống Contact đã phản ánh mộ t s ố lượng hợp đồng giả mạo với mức giá cả khác nhau để thực hiện giao dịch trên sàn, khi đối chiếu với tổng s ố hợp đồng giao dịch ban đầu. Điều này gây chú ý khi xem xét báo cáo của các giao dịch trong tài khoản '92000&” và những điều này lại xảy ra ở những thời điểm khác nhau trong ngày. Điều này là cần thiết để đánh lừa Barings Securities Japan tin rằng lợi nhuận báo cáo trong tài khoản '92000' là kết quả của các hoạt động arbitrage là hợp phép. Hiệ u quả của các thao tác này là để thổi phồng l ợi nhuận báo cáo trong tài khoản '92000‟ từ các chi phí của tài khoản '88888', tài khoản mà cũng thua lỗ đáng kể từ kinh doanh trái phép được thực hiện bởi Leeson. Bài học kinh nghiệ m t ừ ngân hàng Barings

Trang 11

Nhóm 6- NH Đêm 4-K21

TS. Hồ Viế t Tiế n

Ngoài ra qua giao dịch trên SIMEX giữa tài khoản '88888&' và các tài khoản chuyển đổ i, Leeson cũng đã kinh doanh “hư cấu” các tài khoản đó, điều mà không bao giờ được phép trên Sàn giao dịch. Tác động của các giao dịch trên thị trường off (không được cho phép trên SIMEX) lại một lần nữa ghi nhận mức l ợi nhuận vào tài khoản „'chuyển đổi' nói trên và thiệ t hại tính vào tài khoản '88888 '. Điểm mấu chốt của tất cả các giao dịch này là Barings làm đối tác với nhiề u giao dịch riêng của mình. Leeson mua t ừ một “tay này” và bán cho “tay khác‟‟ của mình, và khi làm như vậy đã không phải chịu bất kỳ rủi ro thị trường nào của công ty. Do đó Barings không arbitraging giữa Sàn giao dịch SIMEX và Nhật Bản, nhưng thực hiệ n vị thế đang giao dịch (và có thực), được gói gọn trong tài khoản '88888 '. Nó báo cáo lợi nhuận và mất mát của tài khoản này mộ t cách chính xác, đại diệ n cho doanh thu thu được (hoặc không kiếm được) của Leeson. Thông tin chi tiế t của tài khoản này không bao giờ được chuyể n vào kho bạc hoặc các văn phòng kiểm soát rủi ro ở London, mộ t thiế u sót mà cuối cùng đã có những hậu quả thảm khốc cho cổ đông và trái chủ Barings. Hình 10.3 dưới đây, cho thấy số giao dịch chéo được thực hiệ n bởi Leeson. Đó là sự khác biệt giữa đường đại diệ n cho t ất cả các giao dịch Nikkei tài khoản '92000 ' không qua tài khoản '88888' và đường phản ánh vị trí mà Leeson báo cáo cho các nhà quản lýBarings. Đồ thị đã minh họa khoảng cách giữa vị trí báo cáo và thực t ế Ví dụ, Nhà quản lý Barings nghĩ rằng công ty đã có một vị thế bán 30.112 trong hợp đồng SIMEX vào ngày 24 tháng 2, trong thực t ế nó là vị thế mua 21.928 trong hợp đồng sau khi bỏ qua các giao dịch chéo với tài khoản '88888 '.

Hình 10.3 Bài học kinh nghiệ m t ừ ngân hàng Barings

Trang 12

Nhóm 6- NH Đêm 4-K21

TS. Hồ Viế t Tiế n

CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ SỰ SỤP ĐỔ CỦA NGÂN HÀNG BARINGS Trong hơn ba năm qua đã có nhiều báo cáo khuyến nghị những phương pháp quản lý rủi ro tốt nhất. Ngân hàng Barings gần như vi phạm ở mọ i mặt. Bởi vì hệ thống quản lý của ngân hàng Barings đã phạm sai lầm trong việ c thiế t l ập mộ t hệ thống kiể m soát quản trị, tài chính và ho ạt động đúng đắn, công ty đã không nắm bắt được cho tới khi những việ c mà Leeson bị vỡ lẽ ra. Kể t ừ khi nền tảng của việ c kiể m soát tr ở nên yếu kém, không có gì ngạc nhiên khi hệ thống kiể m tra mỏng manh và l ỗ i quyết toán của công ty xảy ra ở nhiề u cấp hoạt động, quản lý và ở nhiều địa điểm. Có một số bài học được rút ra t ừ việc sụp đổ Ngân hàng Barings: (a) Sự tách biệ t bộ phận kinh...


Similar Free PDFs