ĐỀ TÀI Nghiên CỨU KHOA HỌC Nghiên CỨU TÁC ĐỘNG CỦA MẠNG XÃ HỘI LÊN SINH VIÊN Thành PHỐ HỒ CHÍ MINH NHÓM 4 PDF

Title ĐỀ TÀI Nghiên CỨU KHOA HỌC Nghiên CỨU TÁC ĐỘNG CỦA MẠNG XÃ HỘI LÊN SINH VIÊN Thành PHỐ HỒ CHÍ MINH NHÓM 4
Author K60 Lê Thúy An
Course Nghiên cứu khoa học sinh viên
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 17
File Size 429.8 KB
File Type PDF
Total Downloads 73
Total Views 466

Summary

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGCƠ SỞ II TẠI TP ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC-----------NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA MẠNG XÃ HỘI LÊN SINH VIÊN ĐẠI HỌC ỞTHÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHLớp: K60 (A + B + C) Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Xuân Nhóm: 4Thành phố Hồ Chí Minh ngày 29 tháng 9 năm 2021TH...


Description

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ II TẠI TP.HCM 

ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ----------NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA MẠNG XÃ HỘI LÊN SINH VIÊN ĐẠI HỌC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Lớp: K60 (A + B + C) Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Xuân Nhóm: 4

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 29 tháng 9 năm 2021

THÀNH VIÊN NHÓM BỐN Nhóm nghiên cứu gồm có các bạn như sau: 1. K60A - 2111213068 - Nguyễn Thị Như Ý 2. K60A - 2111213069 - Hồ Châu Hải 3. K60A - 2111213602 - Nguyễn Thị Ngọc Tâm 4. K60A - 2115213027 - Trần Chí Khang 5. K60A - 2115213056 - Lê Văn Thiện 6. K60A - 2115213066 - Trần Thế Vinh 7. K60B - 2111313002 - Lê Thúy An 8. K60B - 2111313003 - Lê Thị Ngân Anh 9. K60B - 2111313007 - Lương Đinh Linh Chi

MỤC LỤC CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ................................................. 3 1.1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 3 1.2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 5 1.3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu ...................................................... 5 1.3.1.

Đối tượng nghiên cứu: ............................................................................... 5

1.3.2.

Phạm vi nghiên cứu: .................................................................................. 5

1.4.

Tổng quan tình hình nghiên cứu ..................................................................... 6

1.4.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ................................................................. 6 1.4.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ................................................................ 9 1.5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 11 1.6. Tính mới và đóng góp của đề tài ...................................................................... 12 1.7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................... 13

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin nói chung và mạng xã hội nói riêng đã tác động rất lớn đến đời sống của toàn xã hội trong nhiều thập kỷ qua. Trong thời đại này, khi tất cả thông tin đều được lưu trữ dưới dạng tệp và các trang web trở thành kho tàng tri thức khổng lồ thì chúng ta không thể nào phủ nhận được những lợi ích mà mạng xã hội đem lại cho toàn nhân loại. Theo thống kê của Digital (số liệu tính tới thời điểm tháng 01/2021), ở Việt Nam có khoảng hơn 72 triệu tài khoản mạng xã hội trên tổng số hơn 96 triệu dân, tức chiếm khoảng 2/3 dân số. Bên cạnh đó, theo điều tra quốc gia về thanh niên do Bộ Y tế, Tổng cục thống kê, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) tiến hành vào năm 2005 cho thấy 50% thanh thiếu niên ở thành thị và 13% thanh thiếu niên ở nông thôn đã sử dụng Internet. Thực tế cho thấy, việc công nghệ wifi phủ rộng khắp nơi giúp các bạn trẻ hoàn toàn có thể linh hoạt trong việc sử dụng mạng xã hội. Từ đó, tần suất sử dụng mạng xã hội của giới trẻ ngày càng gia tăng vì họ có thể truy cập mọi lúc mọi nơi nhờ các thiết bị công nghệ hiện đại như điện thoại di động, máy tính xách tay, máy tính bảng,... Với nội dung đa dạng, phong phú và cách thức sử dụng dễ dàng, mạng xã hội đem lại rất nhiều tiện ích cho con người như: trao đổi, chia sẻ thông tin, tạo trang thông tin điện tử cá nhân, kết nối và trò chuyện trực tuyến,... Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì mạng xã hội vẫn còn tồn tại những mặt tiêu cực tiềm ẩn nhiều rủi ro làm thay đổi trực tiếp đến cách nhìn nhận và hành xử của con người. Đặc điểm nổi trội của các trang mạng xã hội là thông tin nhanh và nhiều, nhưng bị trộn lẫn giữa những thông tin tốt với thông tin xấu, thiếu tính định hướng, không ai phải chịu trách nhiệm và không cần ai kiểm chứng. Điều đáng quan tâm lo ngại nhất hiện nay là mạng xã hội đã và đang xuất hiện nhiều thông tin hàm chứa nội dung tiêu cực, độc hại, định hướng cộng đồng tới những điều xấu xa, đen tối làm cho người tham gia nếu không đủ tỉnh táo, sáng suốt thì có thể bị tiêm nhiễm, ảnh hưởng bởi lượng thông tin hỗn loạn ấy.

Đối mặt với những phức tạp do mạng xã hội gây ra, nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa ra những chính sách nhằm ngăn chặn mối đe dọa từ không gian mạng. Mới đây nhất, vào ngày 12/01/2021, Bộ Thông tin và Truyền thông công bố khai trương Trung tâm xử lý tin giả Việt Nam, mang tính quốc gia với sứ mệnh lan tỏa sự thật. Hơn thế nữa, ngày 17/06/2021 Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Quyết định số 874/QĐBTTTT về việc ban hành “Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội”. Đây được xem là thể chế mềm giúp điều chỉnh mọi hành vi, ứng xử trên mạng xã hội của người dùng tại Việt Nam. Những hành động mang tính quyết liệt trên đã thể hiện rõ sự quan tâm của nhà nước đến thực trạng cũng như ảnh hưởng của mạng xã hội đối với người dân nước ta, đặc biệt hơn cả là giới trẻ hiện nay - độ tuổi có số lượng người sử dụng mạng xã hội nhiều nhất. Bởi lẽ đây cũng chính là nhóm tuổi được tiếp cận với những thành tựu quan trọng của thế giới, được chứng kiến sự lên ngôi của mạng Internet và sự chuyển mình của quê hương, đất nước trong thời đại công nghệ số. Vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu tác động của mạng xã hội đến giới trẻ hiện nay là vô cùng cần thiết và quan trọng. Thế nhưng, ở Việt Nam lại chỉ có một số ít nghiên cứu về tác động của mạng xã hội lên các lĩnh vực như kinh tế, marketing, khoa học,... mà chưa có nghiên cứu nào cho cái nhìn tổng quan về thực trạng sử dụng mạng xã hội cũng như các biện pháp nhằm khắc phục những hậu quả do mạng xã hội gây ra. Với những lý do nêu trên, nhóm tác giả đã quyết định tiến hành đề tài “Nghiên cứu tác động của mạng xã hội lên sinh viên đại học ở thành phố Hồ Chí Minh” và tin chắc rằng nó thực sự cần thiết cho bối cảnh hiện nay của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cho nước ta nói chung. Nghiên cứu nhằm mục đích phân tích, chỉ ra các tác động của mạng xã hội lên sinh viên cả trong đời sống lẫn trong học tập và từ đó đề xuất các biện pháp làm tăng những ảnh hưởng tích cực, giảm thiểu những tác nhân tiêu cực đến việc sử dụng mạng xã hội của sinh viên tại thành phố Hồ Chí Minh, hướng tới một nền giáo dục tốt đẹp của Việt Nam trong tương lai.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu Nhận thấy được sự phủ sóng rộng rãi và lan truyền nhanh chóng của mạng xã hội hiện nay, nghiên cứu hướng đến tác động của mạng xã hội lên sinh viên đại học với 3 mục tiêu sau: Thứ nhất, việc nghiên cứu giúp cách giáo dục hiện thời tiếp cận với cách học sinh tiếp thu thông tin từ đó nâng cao chất lượng sinh viên và phát triển kinh tế. Thứ hai, đưa ra các hướng giải quyết và khắc phục những nội dung gây ảnh hưởng xấu đến việc tiếp thu thông tin và văn hóa của sinh viên. Cuối cùng, đề xuất các biện pháp thiết thực đến với sinh viên nhằm cải thiện thái độ tích cực, giúp sinh viên nâng cao năng suất làm việc và tránh các vấn đề về tâm lý. 1.3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là tác động của mạng xã hội lên sinh viên đại học ở thành phố Hồ Chí Minh. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Nghiên cứu về tác động của mạng xã hội lên sinh viên trường đại học Ngoại Thương cơ sở 2 ở thành phố Hồ Chí Minh để mẫu có tính đại diện cao cho tổng thể. Về thời gian: Dữ liệu ở trong nghiên cứu thu thập từ năm 2006 đến năm 2021, trong đó bao gồm các dữ liệu thứ cấp từ trang tin điện tử Đảng bộ Thành phố Hồ chí Minh, Báo Lao Động, Việt Nam Plus,... và dữ liệu sơ cấp thu thập thông qua phương pháp định tính gồm quan sát, trải nghiệm cùng với phỏng vấn trên nền tảng online như Google Meet, Zoom,... được thiết kế phù hợp với đề tài nghiên cứu.

1.4.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.4.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu về ảnh hưởng của MXH chủ yếu tập trung vào lĩnh vực kinh tế, bao gồm bán hàng, marketing và hành vi mua hàng của người dùng. Bên cạnh đó, hình ảnh và hành vi của người dùng mạng cũng là một chủ đề nóng với xã hội. Một vài nghiên cứu có liên quan đến ảnh hưởng chung của MXH như nghiên cứu của nhóm Vũ Bích Phương (2015), hai bài nghiên cứu của Trần Thị Minh Đức và Bùi Thị Hồng Thái (2014, 2015), luận văn thạc sĩ của Tôn Nữ Cẩm Hường (2014), nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Hoa và Nguyễn Lan Nguyên (2016), luận án tiến sĩ của Nguyễn Lan Nguyên (2020). Nghiên cứu của nhóm Vũ Bích Phương (2015) về "Ảnh hưởng của việc sử dụng internet và tương tác cá nhân trên MXH đến hành vi nguy cơ và chất lượng cuộc sống của thanh thiếu niên", là một trong những nghiên cứu ở Việt Nam đánh giá về sự ảnh hưởng của internet. Thực hiện bằng phương pháp RDS (Respondent-driven Sampling) với 590 người tham gia khảo sát. Nghiên cứu chỉ ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực của internet và MXH lên sức khoẻ và tỉ lệ thực hiện hành vi nguy cơ (risk behavior) của thanh thiếu niên. Nghiên cứu có khá nhiều hạn chế, đầu tiên, khảo sát được tiến hành năm 2015 cách khá xa hiện tại nên nhiều kết quả khó có thể được áp dụng lại. Tiếp theo, nghiên cứu có số lượng mẫu khảo sát hạn chế trên phạm vi rộng nên không có tính phổ quát. Cuối cùng, nghiên cứu chỉ tập trung vào những ảnh hưởng tiêu cực của internet mà bỏ qua mặt tích cực cũng như những nhân tố khác trong cuộc sống có thể ảnh hưởng đến người được khảo sát. Nghiên cứu của Trần Thị Minh Đức và Bùi Thị Hồng Thái (2014) về: "Sử dụng mạng xã hội trong sinh viên Việt Nam" với mục đích chỉ ra thói quen dùng MXH của sinh viên. Sử dụng phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi trên 4.247 sinh viên thuộc 6 tỉnh (Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Huế, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh) từ năm thứ nhất đến năm bốn, xử lý số liệu bằng phương pháp toán thống kê mô tả và thống kê suy luận. Kết quả cho thấy, ở sinh viên Việt Nam, tỉ lệ người sử dụng MXH Facebook chiếm cao

nhất (86.6%), kế đến là Youtube và Google+, với mục đích chủ yếu là tương tác và giải trí, trên 50% sinh viên sử dụng MXH trên 3 giờ mỗi ngày. Nghiên cứu thừa nhận những ảnh hưởng tích cực của MXH và đề xuất rằng cần có sự định hướng cho sinh viên liên quan đến mục đích, thời gian sử dụng và cách bảo vệ bản thân khi tham gia MXH. Nghiên cứu của cùng nhóm tác giả thực hiện vào 2015 đăng trên tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội về "Các loại hình hoạt động trên mạng xã hội của sinh viên và yếu tố ảnh hưởng". Khảo sát tiến hành trên 4205 sinh viên thuộc 6 tỉnh bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu, với câu hỏi thiết kế dưới dạng thang Likert bậc 4. Kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt động chủ yếu của sinh viên là tương tác, giải trí và thể hiện bản thân, với sự ảnh hưởng của các yếu tố: số giờ sử dụng, số lượng bạn bè, sự đánh giá lòng tự trọng. Luận văn thạc sĩ của Tôn Nữ Cẩm Hường (2014) về "Thái độ của sinh viên một số trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh về mạng xã hội". Mục đích của nghiên cứu là tìm hiểu về thái độ của sinh viên đối với MXH họ đang sử dụng, cùng những yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của họ. Nghiên cứu đã được tiến hành bằng phương pháp sử dụng bảng hỏi cùng phỏng vấn, xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. Nghiên cứu liệt kê rõ ràng thái độ chung tương đối của sinh viên TPHCM và các nguyên nhân dẫn đến thái độ đó, cũng như đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng sử dụng MXH của sinh viên theo góc độ tâm lý học. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Hoa và Nguyễn Lan Nguyên (2016) về "Tác động của mạng xã hội Facebook đối với sinh viên hiện nay". Mục đích của nghiên cứu nhằm chỉ ra những mặt tích cực và tiêu cực của MXH Facebook và đề xuất sinh viên cần biết cách sử dụng nó một cách hợp lý, dựa trên kết quả khảo sát của 212 sinh viên và phỏng vấn sâu 21 sinh viên. Kết quả nghiên cứu cho thấy MXH Facebook tác động đến sinh viên theo hướng tích cực, giúp hiệu suất học tập tốt hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu có hạn chế về phạm vi khảo sát, các sinh viên tham gia là thành viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn có đầu vào khá cao nên không thể áp dụng với toàn bộ sinh viên.

Theo luận án tiến sĩ của Nguyễn Lan Nguyên (2020) về "Ảnh hưởng của mạng xã hội Facebook đến học tập và đời sống của sinh viên hiện nay", tác giả nêu lên các hoạt động học tập của sinh viên thông qua MXH với phương pháp thống kê bằng bảng hỏi. Cụ thể gồm: cập nhật thông tin (trao đổi thông tin với bạn bè và giảng viên), tìm kiếm tài liệu (tiếp cận các nhóm, trang mạng, các chuyên gia trong lĩnh vực cần tìm hiểu), kết quả học tập (cập nhật thông tin về việc học, nền tảng thực hiện khảo sát phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học). Về mặt đời sống, MXH mang đến các kết quả tương đối tích cực: giúp sinh viên giao tiếp với bố mẹ và người thân linh hoạt hơn, xây dựng các mối quan hệ bạn bè, cung cấp môi trường triển khai các hoạt động ngoại khoá và tạo cơ hội, cung cấp thông tin về việc làm cho sinh viên. Nghiên cứu cũng đưa ra khuyến nghị về cách phát huy các mặt tích cực của MXH đến từ sự quản lý của nhà nước. Nhìn chung, những nghiên cứu về mạng xã hội ở Việt Nam khá bao quát về ảnh hưởng và các yếu tố liên quan, có tính tham khảo cao. Hầu hết đều dùng phương pháp sử dụng bảng hỏi để dễ dàng tiếp cận đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên vẫn tồn tại những hạn chế, các bài nghiên cứu tập trung vào một hướng tích cực hoặc tiêu cực. Ngoại trừ luận án của Nguyễn Lan Nguyên thì các bài nghiên cứu khác được thực hiện cách đây khá lâu, khó bám sát với số liệu hiện tại đặc biệt là trong tình hình thay đổi chóng mặt của mạng xã hội, và đặc biệt trong tình hình dịch Covid-19, … Tóm lại, vấn đề sử dụng Internet mà đặc biệt là mạng xã hội của sinh viên ở Thành phố Hồ Chí Minh là một vấn đề hết sức nan giải. Kết quả của các bài nghiên cứu trên có thể giúp các trường đại học có những định hướng tốt hơn trong việc tiếp cận và đào tạo sinh viên cũng như giúp nhà nước kiểm soát hành vi, ứng xử của người dùng mạng xã hội. Tuy nhiên thực tế cho thấy các tác động của mạng xã hội lên sinh viên là vô cùng đa dạng và mỗi sinh viên cũng có một cái nhìn khác nhau trong việc truy cập mạng xã hội. Đứng trước thực trạng hỗn loạn của mạng xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh như hiện nay, việc nghiên cứu nhằm chỉ ra các nhân tố tác động trực tiếp cũng như đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc dùng mạng xã hội của sinh viên.

1.4.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Tính đến năm 2021, những nghiên cứu về tác động của mạng xã hội ở Việt Nam không nhiều nhưng ở ngoài nước thì đây lại là một đề tài rất được các nhà nghiên cứu quan tâm đến trên nhiều phương diện, điển hình là những nghiên cứu của các tác giả như: Alessandro và Ralph Gross (2006), Clifton Westly Evers (2011), Adam Moore và cộng sự (2013), Alnjadat R, Hmaidi MM, Samha TE, Kilani MM, Hasswan AM (2019), T. N. Al-Dwaikat, M. Aldalaykeh, W. Ta'an, M. Rababa (2020), Alsunni AA và Latif R. (2021), A. M. Bhandarkar, A. K. Pandey, R. Nayak, K. Pujary, A. Kumar (2021). Trong “Imagined Communities: Awareness, Information Sharing, and Privacy on the Facebook” (Nhận thức về những cộng đồng tưởng tượng, chia sẻ thông tin và quyền riêng tư trên Facebook) - 2006, Alessandro Acquisti và Ralph Gross đã dựa trên một công cụ khảo sát được bổ sung phân tích dữ liệu khai thác từ mạng xã hội trước và sau khi thực hiện khảo sát để tiến hành nghiên cứu về những khác biệt trong suy nghĩ, hành vi giữa những những người sử dụng Facebook và những người không sử dụng. Nghiên cứu còn cho thấy những tác động của việc chia sẻ thông tin một cách nhanh chóng cũng như các vấn đề về quyền riêng tư đối với người dùng Facebook. Trong nghiên cứu “Young People, Social Media, Social Network and Sexual Health Communication in Australia: This is Funny, You Should Watch it ”(Giới trẻ, truyền thông cộng đồng, mạng xã hội và truyền thông sức khỏe tình dục ở Úc) - 2011, Clifton Westly Evers cùng với các cộng sự đã thực hiện nghiên cứu trên giới trẻ ở Úc về việc sử dụng thông tin cộng đồng và mạng xã hội để truyền thông tin sức khỏe tình dục. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp các người trẻ từ 16 đến 22 tuổi, tuy nhiên với số lượng rất ít do không có nguồn nhân lực nên nghiên cứu này không mang lại kết quả khái quát. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đã chỉ ra một số vấn đề liên quan đến việc giáo dục giới tính và sức khỏe tình dục như nỗi lo lắng về sự bắt nạt, quyền riêng tư và sự xấu hổ trên các nền tảng mạng xã hội.

Theo nghiên cứu “Utilizing Social Networks for User Model Priming: User Attitudes” - 2013 của nhóm tác giả bao gồm: Adam Moore, Gudrun Wesiak, Christ ina M.Steiner, Claudia Hauff, Declan Dagger, Gary Donohoe & Owen Conlan cho thấy người dùng có thái độ cởi mở đối với việc cung cấp thông tin cá nhân trong việc tham gia mạng xã hội bằng cách sử dụng nền tảng mô phỏng vai trò EmpowerTheUser để tạo phỏng vấn. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn chỉ ra một đặc tính của người dùng mạng xã hội đó là tính thận trọng của người dùng sẽ tăng lên theo độ tuổi của họ. Alnjadat R, Hmaidi MM, Samha TE, Kilani MM, Hasswan AM (2019) với đề tài "Gender variations in social media usage and academic performance among the students of University of Sharjah" đã sử dụng phương pháp SMAAPOS (Bảng câu hỏi về Mạng xã hội và Thành tích học tập) để thực hiện một nghiên cứu liên ngành ở trường Đại học Sharijah. Với 328/500 câu trả lời, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các học sinh nam có tỷ lệ sử dụng mạng xã hội nhiều hơn các học sinh nữ, thế nhưng các học sinh nữ lại bị ảnh hưởng đến học tập nhiều hơn. Tuy vậy, bài nghiên cứu vẫn chưa nêu được giải thích rõ ràng lý do các thông số về thời gian sử dụng mạng xã hội lại ảnh hưởng đến học tập, cũng như đề cập một cách hạn chế về các yếu tố ảnh hưởng đến các học sinh nữ so với các học sinh nam. T. N. Al-Dwaikat, M. Aldalaykeh, W. Ta'an, M. Rababa (2020), "The relationship between social networking sites usage and psychological distress among undergraduate students during COVID-19 lockdown", đã thực hiện một cuộc khảo sát bằng bảng hỏi về tình trạng tâm lý của các sinh viên và cách họ sử dụng mạng xã hội giữa sự bùng phát của đại dịch Covid-19. Kết quả chỉ ra rằng, ở độ tuổi trung bình 20.8, phần lớn các sinh viên đều bị stress (61.2%), trầm cảm (74.1%) hay lo lắng (59.6%), trong đó sinh viên nữ bị ảnh hưởng nhiều hơn. Kết quả cũng cho thấy rằng các sinh viên sử dụng mạng xã hội vào mục đích học tập thì giảm thiểu được các tình trạng tâm lý trên so với các sinh viên sử dụng với mục đích giải trí. Vì thực hiện nghiên cứu trong thời kỳ đại dịch nên nghiên cứu vô tình nhấn mạnh tính thời điểm thay vì tác động thực sự của mạng xã hội đối với sinh viên.

Alsunni AA, Latif R. (2021), "Higher emotional investment in social media is related to anxiety and depression in university students", đã dùng kỹ thuật chọn mẫu phi ngẫu nhiên, thông qua Google forms để tìm hiểu về mối liên hệ giữa tần suất sử dụng mạng xã hội và tâm lý sinh viên. Kết quả chỉ ra rằng khi đặt càng nhiều tình cảm (chứ không phải lý trí) vào mạng xã hội thì sinh viên càng dễ có khả năng rơi vào trạng thái lo âu và buồn bực. Các yếu tố khác như thời gian và tần suất sử dụng không có tác động rõ rệt. Bài nghiên cứu này chỉ nhấn mạnh vào tâm lý sinh viên, trong khi còn có một mối lo lớn hơn đó chính là sức khỏe, thể chất của giới trẻ. A. M. Bhandarkar, A. K. Pandey, R. Nayak, K. Pujary, A. Kumar (2021) đã thực hiện nghiên cứu với tiêu đề mang tên "Impact of social media on the academic performance of undergraduate medical students", nghiên cứu được tiến hành thông qua bảng câu hỏi để tìm mối liên hệ giữa việc sử dụng mạng xã hội và quá trình học tập của các sinh viên ngành y năm ba và năm tư. 41.5% sinh viên được phỏng vấn sử dụng mạng xã hội ít nhất 3 giờ một ngày, trong đó Whatsapp (98.25%) và Youtube (91.75%) là 2 nền tảng được sử dụng nhiều nhất. Không chỉ đưa ra kết quả không tốt về ảnh hưởng của mạng xã hội, bài nghiên cứu còn nói rằng nên hướng dẫn sinh viên sử dụng các phương tiện truyền thông một cách hiệu quả vào học tập. Nhìn chung, các nghiên cứu nước ngoài có sự đa dạng về số liệu cũng như phương pháp nghiên cứu và khảo sát nhưng hầu hết họ đều sử dụng phương pháp chính là sử dụng bảng hỏi để khảo sát, giúp dễ dàng tiếp cận đối tượng khảo sát và làm rõ những yếu tố liên quan đến tác động tích cực và cả tiêu cực của các nền tảng mạng xã hội đối với người dùng, tất cả đều đưa ra các kết quả trự...


Similar Free PDFs