NHÓM 1( Minh Bằng)-Tiểu luận PLĐC ST5 PDF

Title NHÓM 1( Minh Bằng)-Tiểu luận PLĐC ST5
Course Phap luat dai cuong
Institution Trường Đại học Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 22
File Size 579.1 KB
File Type PDF
Total Downloads 58
Total Views 182

Summary

Trường Đại Học Giao Thông Vận Tải TPHCMMôn học : Pháp Luật Đại CươngTIỂU LUẬNĐề tài: Trách nhiệm hình sự do người chưa thành niênthực hiện trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, thực trạng vàgiải pháp.Nhóm thực hiện đề tài : Nhóm 1PHẠM TRƯỜNG AN- CD21CLCDƯƠNG NGUYỄN TÚ ANH- CD21CLCNGUYỄN MINH BẰNG- CX2...


Description

Trường Đại Học Giao Thông Vận Tải TPHCM Môn học : Pháp Luật Đại Cương

TIỂU LUẬN Đề tài: Trách nhiệm hình sự do người chưa thành niên thực hiện trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, thực trạng và giải pháp. Nhóm thực hiện đề tài: Nhóm 1 PHẠM TRƯỜNG AN- CD21CLC DƯƠNG NGUYỄN TÚ ANH- CD21CLC NGUYỄN MINH BẰNG- CX21CLC NGUYỄN HUỲNH GIA BẢO- CX21CLC ÔN HOÀI BẢO- CX21CLC

GVHD: LÊ VĂN HỢP

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây, tội phạm do người chưa đủ thành niên gây ra ngày một gia tăng và diễn biến càng phức tạp thì số lượng và tính chất nguy hiểm của hành vi của chúng càng có xu hướng tăng lên. Ở phương diện pháp lý, để tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm người chưa thành niên, việc tổng kết thực tiễn và phát hiện những vướng mắc, bất cập trong các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến người chưa thành niên thực hiện là một yêu cầu đòi hỏi đang được đặt ra hiện nay. Theo quy định của Bộ luật hình sự, mục đích của việc xử lý người chưa thành niên thực hiện chủ yếu nhằm giáo dục giúp đỡ các em có cơ hội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để trở thành công dân tốt cho xã hội. Vì vậy, người chưa thành niên thực hiện có thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc miễn trách nhiệm hình sự để đưa về gia đình, cơ quan tổ chức giám sát. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử, do người chưa thành niên thực hiện đa phần phạm vào các tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (cướp, cướp giật, giết người, chống người thi hành công vụ) nên thường bị xử án tù (ít trường hợp được hưởng án treo và áp dụng các biện pháp tư pháp khác). Người chưa thành niên nói chung trong hầu hết các trường hợp đều chưa có đầy đủ quyền công dân tham gia vào những quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật, nhưng tùy thuộc vào từng cấp độ tuổi, họ có thể được pháp luật thừa nhận năng lực hành vi trong một số quan hệ xã hội có điều kiện nhất định. Nhưng các em lại dễ bị lợi dụng, xúi giục, hoặc bị lừa dối để tham gia vào những việc làm trái pháp luật hoặc bị buộc trở thành nạn nhân của sự phân biết đối xử, ngược đãi, bóc lột, xúc phạm nhân phẩm và những hành vi trái pháp luật khác. Luật nói chung, đặc biệt là luật hình sự, luôn phải coi người chưa thành niên là một đối tượng đặc biệt, không chỉ cần được bảo vệ trong cuộc sống mỗi ngày, ngay cả khi chủ đề này vi phạm pháp luật, pháp luật tố tụng hình sự. Cần đưa ra các chế tài riêng để xử lý và thủ tục nó cũng phải phù hợp với trẻ vị thành niên để thể hiện tính nhân văn Trong chính sách quốc gia. Tuy nhiên, các biện pháp trừng phạt như vậy cũng cần đủ mạnh để có tác dụng răn đe và ngăn chặn tội phạm vị thành niên tái phạm, đóng vai trò có tác dụng răn đe đối với xã hội. Mặc dù không áp dụng hình phạt tù chung thân và tử hình. Hình phạt đối 2

với người chưa thành niên vi phạm, nhưng các biện pháp trừng phạt cần thiết khác Vẫn được áp dụng như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và phạt tù có thời hạn.... Có những vụ án do người chưa thành niên gây ra mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng gây hoang mang trong dư luận xã hội. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là một việc khá phức tạp bởi người chưa thành niên còn có nhận thức chưa đầy đủ, hành vi của họ thường mang tính bột phát do bị lôi kéo hoặc kích động, hoặc chưa đủ khả năng làm chủ hành động của mình, hơn nữa họ còn có một tương lai dài phía trước. Do đó, không thể áp dụng các biện pháp xử lý người chưa thành niên phạm tội giống như những người đã thành niên. Đây là lý do tại sao thực trạng- giải pháp và trách nhiệm cho người chưa đủ thành niên thực hiện trở thành một vấn đề cấp bách, nó cần thiết và được xã hội chú ý quan tâm. Nghiên cứu một số vấn đề về các biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên, tìm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự và giải pháp về mặt thực tiễn nhằm góp phần phòng, chống tội phạm người chưa thành niên, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Đây cũng là lý do để tác giả quyết định lựa chọn đề tài: Trách nhiệm hình sự do người chưa thành niên thực hiện trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, thực trạng và giải pháp. 2. Mục đích nghiêm cứu Làm rõ mặt lý luận cơ bản và nội dung trách nhiệm hình sự do người chưa thành niên thực hiện trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, nêu được thực trạng và biện pháp giải quyết trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy định về biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiêm cứu 3.1 Đối tượng nghiêm cứu: Đúng như tên gọi của tiểu luận: Trách nhiệm hình sự do người chưa thành niên thực hiện trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, thực trạng và giải pháp. 3.2

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu Một số vấn đề lý luận, thực trạng và thực

tiễn về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên ở Việt Nam.

3

MỤC LỤC 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên……………………………………………………………………………….. a. Khái niệm người chưa thành niên……………………………………………… b. Đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên……………………………………. c. Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên…………………… 2. Thực trạng về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội…………………………………………………………………….. a. Một số quy định của pháp luật về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội………………………………………………………. a.1 Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội…………………...…… a.2 Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội………………………………………………………………………… a.3 Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 96 BLHS 2015)……………………………………………………………………………. a.4 Hệ thống hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội……………………………………………………………………………….. b. Thực trạng tình hình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở nướ c ta…………………………………………………………………. 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội……………………………………………………….. a. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội………………………………………… b. Một số giải pháp nhằm giảm việc vi phạm pháp luật hình sự của người chưa thành niên……………………………………………………………………….

4

NỘI DUNG 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên a. Khái niệm người chưa thành niên Luật pháp của các quốc gia khác nhau có định nghĩa khác nhau về trẻ vị thành niên. Điều 1 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989, quy định: “Theo mục đích của Công ước này, trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ khi Luật áp dụng đối với trẻ em ở độ tuổi thành niên sớm hơn. Ở Việt Nam, độ tuổi chưa thành niên được quy định thống nhất bởi Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự 2015, Luật Tố tụng hình sự 2015, Luật Lao động, Luật Dân sự, Quy chế xét xử vi phạm hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật này đều quy định độ tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và có những quy định pháp luật riêng cho người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể Theo Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi năm tuổi". Người chưa thành niên được xác định là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, không có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người đã thành niên. Ở Việt Nam, độ tuổi tham gia Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là từ 10 tuổi đến 15 tuổi, độ tuổi tham gia Đội thiếu niên cộng sản Hồ Chí Minh từ 15 tuổi đến 30 tuổi. Trong thời đại Daoan, họ được gọi là thanh niên, trong thời đại Daoan, họ được gọi là thanh thiếu niên, và trong thời đại Daoan, họ được gọi là trẻ em. Ở mọi lứa tuổi, người chưa thành niên được nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc, giáo dục để phát triển tốt nhất về thể lực và nhân cách, trở thành người lành mạnh, có ích cho xã hội. b. Đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên Người chưa thành niên là người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tâm lý, tinh thần và chưa được hưởng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của công dân. Chính vì vậy các em có những đặc điểm tâm lý riêng; Về trạng thái tình cảm: Vị thành niên là người đang trong quá trình phát triển về thể chất, tâm lý và ý thức; Về ý thức pháp luật: Khả năng nhận thức pháp luật của người chưa thành niên còn rất hạn chế. Phần lớn hành vi phạm 5

pháp của người chưa thành niên chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu và lợi ích bất chính của cá nhân, bất chấp hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Về nhu cầu độc lập: Nhu cầu độc lập có thể được hiểu là việc cá nhân tự hành động và tự ra quyết định theo ý kiến riêng mà không muốn bị ảnh hưởng của người khác. Ở lứa tuổi chưa thành niên, nhu cầu độc lập thái quá thường biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng các hành vi như ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ, phô trương. Về nhu cầu khám phá cái mới: Tìm hiểu, khám phá cái mới là một trong những nhu cầu của các em ở lứa tuổi chưa thành niên. Tuy vậy, sự tò mò và khám phá cái mới cũng có thể trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em. c. Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên Qua phân tích khái niệm trách nhiệm hình sự, khái niệm người chưa thành niên ta có thể rút ra khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên như sau: Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là trách nhiệm mà người chưa thành niên phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình. 2. Thực trạng về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội a. Một số quy định của pháp luật về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội a.1 Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 91 BLHS 2015, có các nguyên tắc cụ thể như sau: Trước hết, so với Điều 69 BLHS năm 1999, thì Điều 91 BLHS năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc: “Trong xử lý tội phạm đối với người dưới 18 tuổi, vì lợi ích cao nhất của người dưới 18 tuổi. phải được bảo vệ ”( khoản 1, Điều 91). Đây là nguyên tắc chỉ đạo, nội dung của nguyên tắc này là yêu cầu các cơ sở, tổ chức, cá nhân khi tiến hành các hoạt động liên quan đến xử lý tội phạm người dưới 18 tuổi phải đảm bảo đưa ra các quyết định có lợi nhất cho mối quan hệ hài hòa giữa trẻ em với các lợi ích khác và đảm bảo tuân thủ pháp luật. Vì vậy, mục đích của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là để giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa lỗi lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội chứ không đề cập 6

trực tiếp đến mục đích của hình phạt. Vì vậy, chúng ta cần hiểu rằng, đối với người chưa thành niên, nếu hành vi của họ được BLHS thừa nhận là tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền mới quyết định khởi tố. Cần phải cân nhắc và xem xét, ngay trong giai đoạn này, mục tiêu giáo dục và giúp đỡ người chưa thành niên phải được đặt lên hàng đầu. Để thực hiện nguyên tắc này, khi người chưa thành niên phạm tội, cơ quan xét xử phải xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Điều này sẽ giúp cho người chưa thành niên phạm pháp có hiểu biết toàn diện và sâu sắc về hành vi của mình, để từ đó sửa chữa lỗi lầm, trở thành người có ích cho xã hội. Thứ hai, điều kiện miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội thấp hơn đối với người đã thành niên phạm tội. Trên cơ sở kế thừa quy định tại Điều 69 (2) Bộ luật Hình sự năm 1999 về miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên, Điều 91 (2) Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người dưới 18 tuổi có một trong các các tội sau: quy định của pháp luật, tình tiết Nặng hơn và hầu hết hậu quả là do tự nguyện, có thể miễn trách nhiệm hình sự, có thể áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục. Theo đó, các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục gồm: người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại các điều: Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy). Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật tức là phạm tội rất nghiêm trọng thuộc một trong 28 tội danh mà BLHS năm 2015 quy định đối tượng này phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp quy định tại các điều: Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 7

(tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy).Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án. Do đó, so với BLHS 1999, Điều 91 khoản 2 BLHS 2015 mở rộng đối tượng miễn trách nhiệm hình sự là tất cả người trên 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi, làm rõ điều kiện miễn trách nhiệm hình sự. Đồng thời, bổ sung quy định về việc áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với trẻ em được miễn trách nhiệm hình sự để bảo đảm tính khả thi và khả năng áp dụng của hệ thống pháp luật. Thứ ba, việc truy cứu TNHS người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thì tòa án áp dụng các biện pháp giám sát giáo dục và biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng được quy định tại mục 2 và mục 3 Chương XII của BLHS, gồm: Khiển trách (Điều 93), Hòa giải tại cộng đồng (Điều 94), Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95) và biện pháp tư pháp Giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 96). Như vậy, có thể nói rằng việc truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người thành niên phạm tội là biện pháp cuối cùng. Nguyên tắc thứ tư đối với người chưa thành niên phạm tội là nguyên tắc giảm nhẹ TNHS. Tính chất giảm nhẹ được thể hiện ở những quy định về loại và mức phạt tù có thể áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Thứ năm, “Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”; Thứ sáu,“Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”. Tử hình và tù chung thân là hai 8

biện pháp nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt được quy định trong BLHS, người phạm tội chỉ bị áp dụng hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và khi khả năng giáo dục không còn nữa. Chính vì vậy đối với người chưa thành niên phạm tội, khi mục đích của việc truy cứu TNHS chủ yếu là nhằm giáo dục cải tạo họ, thì không thể áp dụng hai hình phạt này. Nguyên tắc cuối cùng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Khoản 7 Điều 91 BLHS: “Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”. a.2 Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội Trước đây Bộ luật hình sự 1999 chỉ quy định chung chung rằng người chưa thành niên phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự thì sẽ có gia đình hoặc cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục. Bộ luật hình sự 2015 bổ sung một số biện pháp giám sát, giáo dục đối với người chưa thành niên được miễn trách nhiệm hình sự là: biện pháp khiển trách (Điều 93), hòa giải tại cộng đồng (Điều 94) và giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95). Đây là những quy định cụ thể nhằm đưa việc giáo dục, nâng cao nhận thức đối với người phạm tội đi vào thực tế và có hiệu quả. Trên cơ sở quy định của BLHS, Bộ luật tố tụng hình sự năm (BLTTHS) 2015 cũng bổ sung các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại các Điều từ 426 đến 429 của bộ luật. Ngoài ra, Bộ luật hình sự 2015 bỏ đi biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 (do đã có các biện pháp giám sát, giáo dục cụ thể nêu trên) và chỉ giữ lại 1 biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, đó là biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 96). + Biện pháp khin trách (Điều 93 BLHS 2015) Được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2, Điều 91 của BLHS 2015; người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án. Việc khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Người bị khiển trách phải 9

tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc; trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp. Tùy từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn định thời gian thực hiện các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3, Điều 93 BLHS 2015 từ 03 tháng đến 01 năm. Biện pháp này nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội và hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ. + Hòa giải tại cộng đồng (Điều 94 BLHS năm 2015) Được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 điều 91 của BLHS 2015; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của BLHS. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức việc hòa giải tại cộng đồng khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS. Người được áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại; tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc; trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp. Tùy trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền ấn định thời điểm xin lỗi, thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại quy định tại điểm a khoản 3 điều 94 BLHS 2015 và nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 điều 93 của BLHS 2015 từ 03 tháng đến 01 năm. + Giáo dc tại xã, phường, thị trấn (Điều 95 BLHS năm 2015) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 01 năm đến 02 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của BLHS; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của BLHS. Người được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức giám sát, giáo dục phải chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao động; chịu sự giám sát, giáo dục của 10

gia đình, xã, phường, thị trấn; không đi khỏi nơi cư trú khi không được phép và thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 93 của BLHS 2015. Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã chấp hành một phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, cơ quan đã áp dụng biện phá...


Similar Free PDFs