[pdf]Tiểu luận KTCT Hàng hóa sức lao động PDF

Title [pdf]Tiểu luận KTCT Hàng hóa sức lao động
Author Thanh Mai Hoàng
Course Kinh tế chính trị
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 19
File Size 310.5 KB
File Type PDF
Total Downloads 420
Total Views 564

Summary

MỤC LỤCMỞ ĐẦU ............................................................................................................................................ 2 I. LÝ LUẬN CỦA CÁC VỀ HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG ............................................. 3 1. Khái niệm hàng hóa sức lao động ...................


Description

Dương Thu Hoài Ngọc

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................................ 2 LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG ............................................. 3

I.

II.

1.

Khái niệm hàng hóa sức lao động ....................................................................................... 3

2.

Sức lao động và hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa .................................... 3

3.

Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao đông .......................................................................... 4 CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN CÔNG (TIỀN LƯƠNG) Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 7

1.

Thực tiễn quá trình cải cách chính sách tiền công ở Việt Nam hiện nay ................................ 7

2.

Những kết quả đạt được từ quá trình cải cách chính sách tiền công ở Việt Nam hiện nay... 11

3. Những hạn chế trong cải cách chính sách tiền công (tiền lương) ở nước ta những năm gần đây – Nguyên nhân ....................................................................................................................... 12 4. Một số phương hướng, kiến nghị cơ bản để Nhà nước thực hiện có hiệu quả chính sách cải cách tiền công ở Việt Nam hiện nay ............................................................................................. 14 KẾT LUẬN ...................................................................................................................................... 18 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 19

T r a n g 1 | 19

Dương Thu Hoài Ngọc

MỞ ĐẦU Nguồn lực con người luôn là vấn đề quan trọng quyết định sức mạng của đất nước đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay. Nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt đất nước muốn giàu mạnh thì phải dựa vào bản thân, sức lao động sáng tạo của con người. Lý luận về hàng hóa sức lao động, Chủ nghĩa Mác -Lênin đã có những luận điểm khoa học, toàn diện và biện chứng. Trên cơ sở đó, tạo tiền đề vững chắc cho việc lý giải và áp dụng vào thực tiễn xã hội những giải pháp nhằm cải các chính sách tiền lương ở Việt Nam hiện nay. Ở Việt Nam, thực tiễn cải cách chính sách tiền lương, nhất là từ giai đoạn từ 1992 đến nay cho thấy những nỗ lực, cố gắng của cả hệ thống chính trị, cải cách chính sách tiền lương của nước ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, chính sách tiền lương của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập so với nhu cầu của thực tiễn phát triển đất nước. Điều này đặt ra yêu cần một cuộc cải cách chính sách tiền lương toàn diện, đồng bộ; dựa trên nhu cầu của thực tiễn, bằng chứng khoa học thuyết phục, tạo ra động lực thực sự để người lao động trong khu vực nhà nước và doanh nghiệp cống hiến, sáng tạo và phát triển đất nước bền vững. Từ đó, em xin chọn đề tài “Hàng hóa sức lao động và vấn đề tiền lương, cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay” để làm sáng tỏ hơn vấn đề này.

T r a n g 2 | 19

Dương Thu Hoài Ngọc

I.

LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG 1. Khái niệm hàng hóa sức lao động Để tìm hiểu về một vấn đề cụ thể nào đó, trước hết ta phải hiểu khái niệm

của nó. Vậy “Hàng hóa sức lao động” là gì? Sự biến đổi giá trị của số tiền cần phải chuyển hóa thành tư bản không thể xảy ra trong bản thân số tiền ấy, mà chỉ có thể xảy ra từ hàng hóa mua vào (T – H). Hàng hóa đó không thể là một hàng hóa thông thường, mà phải là một hàng hóa đặc biệt, hàng hóa mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hóa đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường. 2. Sức lao động và hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa Theo C. Mác, “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”. Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng không phải trong bất kỳ điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hóa. Thực tiễn lịch sử cho thấy, sức lao động của người nô lệ không phải hàng hóa, vì bản thân nô lệ thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta không có quyền bán sức lao động của mình. Người thợ thủ công tự do tuy được tùy ý sử dụng sức lao động của mình, nhưng sức lao động của anh ta cũng không phải hàng hóa, vì anh ta có tư liệu sản xuất để làm ra sản phẩm nuôi sống mình chứ chưa buộc phải bán sức lao động để sống. Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hóa trong những điều kiện lịch sử nhất định sau đây:

T r a n g 3 | 19

Dương Thu Hoài Ngọc

Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa. Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất, để tồn tạo buộc anh ta phải bán sức lao động của mình để sống. Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động trở thành hàng hóa. Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản . Tuy nhiên để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ phải phát triển đến một mức độ nhất định. Trong các hình thái xã hội trước chủ nghĩa tư bản chỉ có sản phẩm của lao động mới là hàng hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định nào đó, các hình thái sản xuất xã hội cũ (sản xuất nhỏ, phường hội, phong kiến) bị phá vỡ, thì mới xuất hiện những điều kiện để cho sức lao động trở thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động làm cho sản xuất hàng hóa có tính chất phổ biến và đã báo hiệu cho sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội – thời đại của chủ nghĩa tư bản. 3. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao đông Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. 3.1. Giá trị hàng hóa sức lao động Giá trị hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định về ăn, mặc, ở, T r a n g 4 | 19

Dương Thu Hoài Ngọc

học nghề,... Ngoài ra, người lao động còn phải thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và con cái anh ta nữ. Chỉ có như vậy thì sức lao động mới được sản xuất và tái sản xuất một cách liên tục. Vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy; hay nói cách khác, giá trị hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân và gia đình anh ta. Là hàng hóa đặc biêt, giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó có nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có nhu cầu tinh thần, văn hóa... Những nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước trong từng thời kỳ, đồng thời nó còn phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó. Tuy giá trị hàng hóa sức lao động bao hàm yếu tố tinh thần và lịch sử, nhưng đối với một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định, do đó có thể xác định được lượng giá trọ hàng hóa sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành: Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân. Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân. Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người công nhân. T r a n g 5 | 19

Dương Thu Hoài Ngọc

Để biết được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định, cần nghiên cứu hai loại nhân tố tác động đối lập nhau đến sự biến đổi của giá trị sức lao động. Một mặt, sự tăng nhu cầu trung bình của xã hội về hàng hóa và dịch vụ, về học tập và nâng cao trình độ lành nghề đã làm tăng giá trị sức lao động; mặt khác, sự tăng năng suất lao động xã hội sẽ làm giảm giá trị sức lao động. 3.2. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động Hàng hóa sức lao động không chỉ có giá trị, mà còn có giá trị sử dụng như bất kỳ hàng hóa thông thường nào. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Tuy nhiên, quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa sức lao động khác với quá trình tiêu dùng hàng hóa thông thường ở chỗ: hàng hóa thông thường sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian. Trái lại, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình sản xuất ra một hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình sáng tạo ra giá trị mới. Mục đích của nhà tư bản là muốn giá trị mới được sáng tạo ra phải lớn hơn giá trị sức lao động và thực tế việc nhà tue bản tiêu dùng sức lao động (thông qua hoạt động lao động của người công nhân) đã hàm chứa khả năng này. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Nhu vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là chìa khóa để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản (T – H – T’). Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản. T r a n g 6 | 19

Dương Thu Hoài Ngọc

II.

CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN CÔNG (TIỀN LƯƠNG) Ở VIỆT

NAM HIỆN NAY. 1.

Thực tiễn quá trình cải cách chính sách tiền công ở Việt Nam hiện

nay Chính sách tiền công (tiền lương) là một bộ phận đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, liên quan trực tiếp đến các cân đối lớn của nề kinh tế, thị trường lao động và đời sống người lao động, góp phần xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, trong sach, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phòng chống tham nhũng, lãng phí. Nước ta đã trải qua 4 lần cải cách chính sách tiền lương vào các năm 1960, năm 1985, năm 1993, năm 2003. Cụ thể như sau: Cải cách tiền lương giai đoạn 1960-1984 Sau hòa bình lập lại, những yêu cầu đặt ra trong việc sửa đổi chế độ tiền lương đối với người lao động tại miền Bắc Việt Nam lần đầu tiên được đưa ra vào năm 1957 và chính thức được triển khai vào năm 1960, sau khi hoàn thành cải tạo kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong đợt cải cách này, mức tiền lương cụ thể cho từng loại công việc, thời gian trả, hình thức trả lương, nâng bậc lương và các vấn đề khác liên quan đều do Nhà nước định sẵn thông qua hệ thống các bậc lương và phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Vấn đề tiền lương tối thiểu được Chính phủ giới hạn trực tiếp bằng việc quy định cụ thể các mức lương trong các ngành. Một trong những điểm nhấn của chính sách cải cách tiền lương ở Việt Nam trong giai đoạn 1960-1984 là hướng tới mục tiêu chiếu cố toàn diện, cân nhắc kỹ lưỡng giữa yêu cầu và khả năng, kết hợp nguyên tắc với thực tế để vận dụng đúng đắn nguyên tắc phân phối theo lao động vào tình hình thực tế đất T r a n g 7 | 19

Dương Thu Hoài Ngọc

nước (...), chống chủ nghĩa bình quân, phải chống xu hướng đòi công bằng hợp lý một cách tuyệt đối, không phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đất nước. Cải cách tiền lương giai đoạn 1985-1992 Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6-1985) và Nghị định số 235/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng Về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang đã dẫn đến một cuộc cải cách lớn về giá lương - tiền, mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước. Nghị định số 235 quy định thang, bảng lương đối với công nhân, nhân viên, cán bộ quản lý xí nghiệp, công ty và bảng lương chức vụ đối với cán bộ, viên chức trong các tổ chức sự nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước. Nguyên tắc hưởng lương là làm công việc gì, chức vụ gì thì hưởng lương theo công việc, chức vụ đó Mặc dù còn nhiều hạn chế, tuy nhiên có thể khẳng định chính sách cải cách tiền lương của Việt Nam trong giai đoạn 1985-1992 đã có tiến bộ đáng kể trong việc quy định về tiền lương tối thiểu; đã có sự phân định về tiền lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp trong nước và các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo sự công bằng trong việc trả công cho người lao động. Cải cách tiền lương giai đoạn 1993-2002 Giai đoạn này được đánh dấu bằng các văn bản: Nghị định số 26/CP quy định tạm thời chế độ tiền lương mới trong các doanh nghiệp; Nghị định số 25/CP quy định tạm thời chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức hành chính - sự nghiệp và lực lượng vũ trang của Chính phủ ban hành ngày 23/5/1993; Bộ luật Lao động (1994); Nghị định số 197/CP ngày 31/12/1994 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về

T r a n g 8 | 19

Dương Thu Hoài Ngọc

tiền lương; Thông tư số 11/LĐTBXH-TT ngày 3/5/1995 hướng dẫn Nghị định số 197/ CP... Mục tiêu của cải cách chính sách tiền lương của Việt Nam trong giai đoạn 1993-2002 là phải làm cho tiền lương trở thành thước đo giá trị sức lao động, áp dụng ở mọi thành phần kinh tế có quan hệ lao động theo thị trường. Đặc biệt, tiền lương tối thiểu phải thực sự là “lưới an toàn” cho người lao động, đảm bảo cho họ duy trì được mức sống tối thiểu cần thiết và tái sản xuất sức lao động; đáp ứng yêu cầu tiền tệ hóa tiền lương, dần thay thế và tiến tới xóa bỏ chế độ phân phối hiện vật có tính chất tiền lương. Những thành công và hạn chế của cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 1993-2002 đặt nền móng cho việc hoàn thiện các quy định về tiền lương dựa trên cơ sở có quan hệ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động; tạo sự cạnh tranh giữa những người lao động và điều kiện cho sự phát triển thị trường lao động; tách chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước với tiền lương của người lao động trong doanh nghiệp; tách dần chính sách tiền lương với chính sách bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công. Việc Quốc hội ban hành Bộ luật Lao động, (1994) đã xác lập: tiền lương tối thiểu đã được ghi nhận một cách đầy đủ, toàn diện trong văn bản pháp lý có hiệu lực cao là Bộ luật. Bộ Luật Lao động góp phần tạo nên trật tự cho các quan hệ xã hội trong lĩnh vực lao động thay đổi theo hướng tích cực và hội nhập với thế giới. Cải cách tiền lương giai đoạn 2003-2020 Điểm nhấn của cải cách chính sách tiền lương giai đoạn này là từ năm 2009, Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng dựa trên mức lương tối thiểu chung dành riêng cho khu vực doanh nghiệp tư nhân. Đặc biệt, thực hiện Kết luận số 23-KL/TW ngày 29/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 và Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI , nước ta T r a n g 9 | 19

Dương Thu Hoài Ngọc

đã từng bước hoàn thiện cơ chế quy định mức lương tối thiểu vùng và chế độ tiền lương của khu vực doanh nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; đã thực hiện nguyên tắc chỉ điều chỉnh mức lương cơ sở và ban hành chính sách, chế độ mới đối với khu vực công khi đã bố trí đủ nguồn lực; không ban hành mới các chế độ phụ cấp theo nghề, triển khai xây dựng danh mục vị trí việc làm tạo cơ sở cho việc trả lương. Đồng thời từ năm 2013, tiền lương tối thiểu để tính lương cho người lao động ở khu vực công được đổi thành mức lương cơ sở. Ngày 9/11/2016, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về kế hoạch tài chính 5 năm, trong đó có nội dung tăng mức lương cơ sở tối thiểu trung bình 7%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Tính đến ngày 1/7/2018, mức lương cơ sở của người lao động trong khu vực công đạt 1.390.000 đồng/tháng. Đối với khu vực doanh nghiệp, mức lương tối thiểu vùng I là 3.980.000 đồng/tháng; vùng II là 3.530.000 đồng/tháng; vùng III là 3.090.000 đồng/tháng; vùng IV là 2.760.000 đồng/tháng. Đây là một trong những nội dung nổi bật của chính sách cải cách tiền lương giai đoạn 2003-2020. Có thể khẳng định từ năm 2004 đến nay, Việt Nam đã liên tục hoàn thiện chế độ tiền lương trên cơ sở mở rộng quan hệ tiền lương, thu gọn một bước hệ thống thang, bảng, ngạch, bậc lương, đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Với quy trình thực hiện cải cách theo nhiều bước, các quy định về tiền lương của giai đoạn 2003-2020 có xu hướng đảm bảo cuộc sống của người lao động và gia đình họ; vừa không tạo ra gánh nặng cho quỹ lương của Nhà nước và người sử dụng lao động, đảm bảo tính hợp lý và hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia quan hệ lao động. Tuy nhiên, thực chất của cải cách chính sách tiền lương trong giai đoạn này vẫn dựa trên cách tính lương năm 1993, chỉ điều chỉnh tăng mức lương cơ sở, mở rộng quan hệ tiền lương, tách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực chi từ ngân T r a n g 10 | 19

Dương Thu Hoài Ngọc

sách nhà nước... Vì vậy, chính sách tiền lương của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập so với nhu cầu của thực tiễn phát triển đất nước. Điều này đặt ra yêu cần một cuộc cải cách chính sách tiền lương toàn diện, đồng bộ; dựa trên nhu cầu của thực tiễn, bằng chứng khoa học thuyết phục. 2.

Những kết quả đạt được từ quá trình cải cách chính sách tiền công ở

Việt Nam hiện nay Trong những năm qua, công cuộc cải cách chính sách tiền công ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Chính sách tiền lương được cải cách đã bãi bỏ hệ thống bảng lương được cho là quá phức tạp, chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo mang tính bình quân, cào bằng hiện nay bằng các bảng lương mới đơn giản và phù hợp hơn. Quy định bảng lương chuyên môn theo ngạch, bậc đối với công chức, viên chức, các chức vụ lãnh đạo hưởng lương chuyên môn nghiệp vụ và phụ cấp lãnh đạo tạo thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị và thực hiện được nguyên tắc bổ nhiệm, miễn nhiệm có lên – có xuống, có vào – có ra khi thay đổi chức danh. Nhờ đó, tiền lương trong khu vực công của cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang đã từng bước được cải thiện, nhất là ở những vùng, lĩnh vực đặc biệt khó khắn, góp phần nâng cao đời sống người lao động. Trong khu vực doanh nghiệp, chính sách tiền lương từng bước được hoàn thiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó, chính sách tiền lương đã thể hiện sự ưu đãi của Nhà nước đối với điều kiện lao động, lĩnh vực và ngành nghề làm việc. Đã cí các loại phụ cấp, từ phụ cấp thu hút, phụ cấp theo điều kiện làm việc, phụ cấp ưu đãi nghề, phụ cấp thâm niên, phụ cấp theo lĩnh vực công tác... Đã từng bước đổi mới và T r a n g 11 | 19

Dương Thu Hoài Ngọc

tách riêng cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập của cơ quan hành chính và khu vực sự nghiệp công lập để tăng thêm thu nhập cho công chức, viên chức, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơ quan Nhà nước và chất lượng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công. Tiền lương khu vực doah nghiệp đã từng bước thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Mức lương tối thiểu được luật hóa tại Bộ luật Lao động, được hình thành trên cơ sở thương lượng tại Hội đồng Tiền lương quốc gia với thành phần cân bằng của ba bên là đại diện của người lao động, đại diện của doanh nghiệp và đại diện của Nhà nước thay vì Nhà nước đơn phương định đoạt, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Những hạn chế trong cải cách chính sách tiền công (tiền lương) ở

3.

nước ta những năm gần đây – Nguyên nhân Bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách tiền lương hiện hành vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Chính sách tiền lương trong khu vực công còn phức tạp, thiết kế hệ thống bảng lương chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo; còn mang nặng tính bình quân, không bảo đảm được cuộc sống, chưa phát huy được nhân tài, chưa tạo được động lực để nâng cao chất lượng và hiệu quả làm việc của cán bộ, c...


Similar Free PDFs