Quá trình thành lập triều Trần PDF

Title Quá trình thành lập triều Trần
Course Lịch sử văn minh thế giới
Institution Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 20
File Size 495.1 KB
File Type PDF
Total Downloads 528
Total Views 682

Summary

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCMBÀI TIỂU LUẬNĐỀ TÀI: NHÀ TRẦN TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAMGiáo viên hướng dẫn: Ngô Sỹ TrángSinh viên thực hiện: Nguyễn Minh Trung – 47.01. Nguyễn Thị Phương Trinh - 47.01. Ung Thị Ngọc Diễm Trân - 47.01. (Nhóm 5) LỊCH SỬ VIỆT NAM 1 - MÃ HỌC PHẦN...


Description

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM

BÀI TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI: ~NHÀ TRẦN TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM~

Giáo viên hướng dẫn: Ngô Sỹ Tráng Sinh viên thực hiện: 1. Nguyễn Minh Trung – 47.01.607. 2. Nguyễn Thị Phương Trinh - 47.01.607.119 3. Ung Thị Ngọc Diễm Trân - 47.01.607.115 (Nhóm 5)

LỊCH SỬ VIỆT NAM 1 - MÃ HỌC PHẦN: LITR130302

I – MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1..Lý do chọn đề tài.................................................................................................................. 2. Mục tiêu nghiên cứu........................................................................................................... 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................................... 4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................... 5. Nội dung chính.................................................................................................................... II – NỘI DUNG....................................................................................................................... CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP TRIỀU TRẦN...................................................... 1.1 Sự khủng hoảng của nhà Lý.............................................................................................. 1.2 Nhân vật Trần Thủ Độ và quá trình thành lập nhà Trần.................................................... CHƯƠNG 2: ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI NHÀ TRẦN................................................................ 2.1 Chính trị-xã hội.................................................................................................................. 2.2 Kinh tế ............................................................................................................................... 2.3 Văn hóa- giáo dục.............................................................................................................. 2.4 Kháng chiến chống ngoại xâm và mở rộng lãnh thổ.......................................................... 2.4.1 Cuộc kháng chiến chống quân mông nguyên lần 1 (năm 1258)....................................... 2.4.2 Cuộc kháng chiến chống quân mông nguyên lần 2 (1285).............................................. 2.4.3 Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 3 (1287 – 1288)................................. 2.5 Ý nghĩa lịch sử ba lần kháng chiến chống quân mông nguyên............................................ 2.6 Sự sụp đổ của nhà Trần...................................................................................................... CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA TRIỀU TRẦN...................................................... 3.1 Đóng góp nhầ Trần.............................................................................................................. 3.2 Mở rộng lãnh thổ................................................................................................................. III – KẾT LUẬN...................................................................................................................... 1..Vai trò.................................................................................................................................. 2..Đánh giá về nhà Trần........................................................................................................... DANH MỤC THAM KHẢO...................................................................................................

I – MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong bài diễn ca lịch sử “Lịch sử nước ta” của chủ tịch Hồ chí Minh có hai câu thơ: “ Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” Trong thời kì xây dựng đất nước mỗi thời điểm, mỗi triều đại đều có nét văn hóa, cách phát triển đặc trưng riêng. Có biết bao anh hùng hào kiệt, biết bao cuộc kháng chiến ghi danh sử sách “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”. Ông cha ta đã có công xây dựng nước, vì thế ta cần có trách nhiệm phát triển và giữ gìn. Vậy nên, việc tìm hiểu lịch sử dân tộc là một điều hết sức cần thiết. Là con dân đất Việt, chúng ta cần đi tìm hiểu về văn hóa,địa lý, phải biết về lịch sử dân tộc, để có thể nhìn vào đó, sống có ý nghĩa, cống hiến cho đời, phát huy những truyền thống giá trị tốt đẹp của Việt Nam ta đồng thời lan tỏa đưa nó vươn rộng ra thế giới một cách đáng tự hào và trân trọng. Chính vì những lí do trên, chúng em quyết định thực hiện đề tài lịch sử Việt Nam với chuyên đề: Quá trình thành lập và những đóng góp của nhà Trần - một triều đại tồn tại lâu đời và có những đóng góp to lớn về chính trị, văn hóa-giáo dục. Triều đại sinh ra những anh hùng hào kiệt như Trần Quốc Tuấn, Trần Nhât Duật, Trần Bình Trọng,... 2. Mục tiêu nghiên cứu Về khoa học, đề tài mang đến ý nghĩa lịch sử, đặc biệt là những đường lối, chính sách, chiến lược và những đóng góp to lớn của thời nhà Trần trong suốt quá trình trị vì đất nước. Về thực tiễn, giúp cho thế hệ ngày nay có cái nhìn toàn diện và am hiểu hơn về lịch sử Việt Nam, thế hệ trẻ kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, hoàn thành nghĩa vụ và trách nhiệm về quân sự trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đóng góp tài liệu cho sinh viên yêu thích và nghiên cứu về lịch sử dân tộc. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Sự khủng hoảng của nhà Lý và quá trình thành lập triều Trần, nước ta dưới thời nhà Trần và những đóng góp to lớn của nhà Trần. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: tìm kiếm thông tin về lịch sử, biết phân tích, chọn lọc các nội dung liên quan đến triều đại nhà Trần trrong tiến trình lịch sử. Phương

pháp logic: trình bày nội dung rõ ràng, rành mạch, theo trình tự. Phương pháp luận: trình bày nội dung theo hệ thống nhất định, thuyết phục người đọc, người nghe. 5. Nội dung chính Tìm hiểu về quá trình thành lập triều Trần, Đại Việt dưới thời nhà Trần (chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục) và những đóng góp của nhà Trần. II – NỘI DUNG CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP TRIỀU TRẦN 1.1 Sự khủng hoảng của nhà Lý Lý Nhân Tông là vị vua trị vì dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Trong thời gian ông cai trị (1072 – 1127), đất nước đã đạt đến đỉnh cao của sự hưng thịnh. Sử cũ ca ngợi ông là “Bậc vua sáng suốt thần võ, trí tuệ hiếu nhân”. Nhà Lý thời vua Nhân Tông phát triển là thế nhưng về sau từ đời Anh Tông thì dần trở nên sút kém, đánh dấu cho sự kết thúc của thời kì phát triển đỉnh cao của nhà Lý. Các vua lên ngôi đều nhỏ tuổi (Anh Tông 3 tuổi, Cao Tông 2 tuổi,...) chính vì thế quyền hành đều rơi vào tay ngoại thích, vua chỉ còn là bù nhìn. Thời Cao Tông, chính quyền không còn chăm lo cho nhân dân mà ngày càng ăn chơi sa đọa, xuất hiện nhiều nịnh thần chiều theo ý vua để được thăng tiến.”Bấy giờ nhà vua vẫn cứ tiến hành mọi việc thổ mộc không ngừng, nghe nói ngoài kinh thành có giặc cướp, cũng giả vờ làm ngơ, chỉ ham thích của cải. Các quan lại đều bắt chước, tranh nhau bán quan buôn ngục, ngoài ra không còn nghĩ đến việc gì.”, "Chính sự ngày một đổ nát, đói kém xảy ra luôn luôn. Nhân dân cùng quẫn, khốn khổ, giặc cướp nổi lên ở nhiêu nơi."(Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục) gây nên sự phẫn nộ trong nhân dân từ đó nổi lên nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân. Loạn Đoàn Thượng và Quách Bốc chính là cuộc binh biến thúc đẩy thêm sự suy yếu của nhà Lý và tạo nên sự hưng khởi cho họ Trần. Năm 1207, Đoàn Thượng là hào trưởng lớn nổi dậy xây đắp thành lũy, xưng vương hiệu. Nhưng vì thế lực triều đình quá mạnh nên Đoàn Thượng ngầm sai người đút lót và liên minh với Phạm Du. Đầu năm 1209, lợi dụng việc Cao Tông sai đi coi việc quân ở châu Nghệ An mà triệu tập những người vong mệnh nổi dậy chống triều đình. Vua Cao Tông thấy tình hình cấp bách liền sai Phạm Bỉnh Di lấy quân ở Đằng Châu để chống lại bọn Phạm Du. Sau nhiều lần giao tranh, tháng 2 năm 1209 Phạm Du thua cuộc và bỏ trốn sau đó ngầm đút lót cho các quan trong triều đình, nói rằng Bỉnh Di tàn ác, giết người vô tội kể lể tình oan, xin về đợi tội. Cao Tông lúc ấy sai Trần Hinh triệu Phạm Du và Bỉnh Di về triều. Phạm Du về kinh trước được vua tin cậy, Cao Tông nghe lời gièm pha của Phạm Du mà bắt giết cha con Bỉnh Di. Năm 1210 bất lực trước đại loạn Cao Tông qua đời khi 37 tuổi, thái tử Sảm hiệu là Lý Huệ Tông lên ngôi.

1.2 Nhân vật Trần Thủ Độ và quá trình thành lập nhà Trần Vào thời Lý Huệ Tông, đất nước dần suy kém, loạn lạc, đói kém xảy ra khắp nơi. “ Huệ Tông dần dần mắc chứng điên. Chính sự không quyết đoán, giao phó cho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong tay đã về tay kẻ khác.” Chính vì từ lâu đã phát cuồng khi không có con trai để nối dõi mà chỉ có hai con gái nên Huệ Tông đã nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh – Lý Chiêu Hoàng vào năm 1225 lúc đó mới 6 tuổi, quyền bính trong triều hoàn toàn nằm trong tay Trần Thủ Độ. Dưới sự điều khiển của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng chính thức nhường ngôi cho Trần Cảnh. Vương triều Lý đến đây chấm dứt sau 216 năm cầm quyền. Ngô Sĩ Liên trong “Đại Việt sử ký toàn thư” nhận xét: “Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua.” Với tài trí và mưu lược của mình, Trần Thủ Độ đã đưa nhà Trần lên nắm quyền một cách êm đềm và nhẹ nhàng nhất.Phải nói cuộc thay đổi triều đại từ nhà Lý sang nhà Trần là cuộc thay đổi không có tác động ảnh hưởng gì lớn đối với xã hội và là cuộc chuyển đổi triều đại êm đềm nhất trong lịch sử Việt Nam. CHƯƠNG 2: ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI NHÀ TRẦN 2.1 Chính trị-xã hội Trong 175 năm trị vì (từ 1225 - 1400) nhà Trần là triều đại quân chủ chuyên chế trong lịch sử Việt Nam, lãnh đạo nhân dân Đại Việt ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên thành công vào các năm 1258, 1285, 1288. Với sự khôn khéo và tài năng, nhà Trần từng bước xây dựng vững chắc chính quyền, thay nhà Lý tiếp tục phát triển cao hơn của xã hội Đại Việt, tạo ra một nền thống nhất và ổn định đất nước cho đến giữa thế kỉ XIV. 2.1.1 Bộ máy chính trị Vào thời Trần, bộ máy quan lại cũng giống như thời Lý. Được tổ chức theo chế độ quân chủ trung ương tập quyền, gồm hai cấp: triều đình, và các cấp địa phương. Cấp triều đình: Triều đình đứng đầu là vua, thời Trần thực hiện chế độ Thái thượng hoàng để đảm bảo vững chắc vị trí và khả năng nắm chính quyền trong tay vua, tránh những vụ tranh ngôi đoạt quyền trong nội bộ hoàng tộc. Các vua thường nhường ngôi sớm cho con và tự xưng Thái thượng hoàng cùng với vua (con) quản lí đất nước. Các quan chức thần, võ phần lớn do người họ Trần nắm giữ. Hệ thống quan lại thời Trần vẫn được giữ nguyên như thời nhà Lý nhưng được củng cố và tổ chức có quy củ hơn: Quan chức lớn ở triều đình như thái sư, thái úy, bình chương sự , thái phó, thái bảo, thiếu phó, thiếu bảo, tả hữu bộc xạ, tham tri chính sj và các chức võ quan cáo cấp như đô nguyên soái, phó đô nguyên soái, tiết độ sứ phó tiết độ sứ đại

tướng quân thì chỉ các tôn thất mới được nắm giữ. Chức phiêu kị tướng quân chỉ dành riêng cho hoàng tử; Các quý tộc họ Trần được phong vương hầu, ban thái ấp. Nhà Trần còn quy định cụ thể thời gian để xem xét việc thưởng , phạt quan lại. “ Theo thể lệ nhà Trần, cứ 15 năm nếu không có lỗi nặng thì thăng một bậc chức vụ. Việc thăng thưởng, bổ sung được quy định rõ ràng.”(Khâm định Việt sử thông giám cương mục)

Hình 2.1: Sơ đồ Bộ máy nhà nước thới Trần Các chức vụ chủ chốt trong triều và một số phủ lộ quan trọng , nhưng vẫn còn hạn chế do số lượng người và năng lực có hạn. Vì thế những năm đầu nhà Trần duy trì bộ máy chính quyền cũ và giữ lại nhiều quan chức nhà Lý làm trọng thần như Phùng Tá Chu, Phạm Kính Ân. Sau đó ra bộ Quốc triều thông chế “xét các lệ của triều trước, định làm thông chế quốc triều”. Bộ máy nhà nước có kỉ cương, chặt chẽ và phù hợp hơn trong tình hình mới. Tại triều đình có bộ phận trung khu bao gồm các tể tướng, á tướng, tri mật viện sự và hành khiển ở môn hạ sảnh có nhiệm vụ chỉ đạo các quan văn quan võ. Dưới trung khu còn có các cơ quan chức năng: Đứng đầu sảnh là Thượng thư hành khiển và thượng thư hữu bật, dưới thượng thư là các chức thị lang, lang trung. Thượng thư sảnh gồm 6 bộ: lại, hội, lễ, binh, hình, công quản lí các công việc: tổ chức bộ máy

hành chính, ngoại giao, tín ngưỡng, kinh tế, quân sự, pháp luật và xây dựng cơ bản. Đặt thêm một số cơ quan như Quốc sử viện (đảm nhận việc viết sử), Thái y viện (coi chữa trị bệnh trong cung vua), Tôn nhân phủ (nắm sứ vu của họ hàng tôn thất). Các cấp địa phương: Các địa phương trên cả nước được nhà Trần tổ chức chính quyền thành 3 cấp: phủ lộ, huyện châu, hương xã. Chia lại 24 lộ cũ thời Lý thành 12 lộ, đứng đầu các lộ có các chức chánh phó An phủ sứ. Dưới lộ là phủ, do chức tri phủ cai quản. Các châu huyện do các chức tri châu, tri huyện trông coi. Cuối cùng là xã, do xã quan đứng đầu. Nhà Trần rất coi trọng chính quyền các cấp lộ phủ. Ở lộ còn có thêm các cơ quan phụ trách một số công việc như: Hà đê (trông coi đê điều), Thủy lộ đề hình (trông coi việc giao thông thủy và bộ). Ngoài ra, còn tang cường thêm cơ quan chính quyền địa phương, đặt đồn điền sứ và phó sứ ở ti khuyến nông. 2.1.2 Quân đội Nhà Trần một mặt thay nhà Lý cai quản đất nước nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, xã hội, xây dựng chính quyền mới. Mặt khác, tổ chức lại quân đội, củng cố quốc phòng, tăng cường lực lượng quân sự. Về tổ chức và phiên chế: Quân đội nhà Trần gồm có cấm quân và quân các lộ. Năm 1239, Trần Thái Tông hạ lệnh tuyển trai tráng làm binh lính, chia làm 3 bậc thượng, trung, hạ. Cấm quân còn gọi là quân túc vệ là đạo quân bảo vệ kinh thành, triều đình, nhà vua. Được nhà Trần đặc biệt chú ý, tuyển chọn từ những trai tráng khỏe mạnh. Quân các lộ ở đồng bằng gọi là chính binh, ở miền núi gọi là phiên binh. Năm 1246, Trần Thái Tông đặt ra các vệ tứ thiên, tứ thánh, tứ thần, được hợp thành từ ưu binh của các lộ quân. Quân các lộ Thiên Trường, Long Hưng nhập vào quân Thiên Thuộc, Thiên Cương, Chương Thánh, Củng Thần. Quân các lộ Hồng Châu, Khoái Châu nhập vào các quân tả hữu Thánh Dực. Quân các lộ Trường Yên, Kiến Xương nhập vào các quân Thánh Dực, Thần Sách. Năm 1311, Trần Anh Tông lập thêm quân Vũ Tiệp. Năm 1374 Trần Duệ Tông lập thêm các quân Uy Tiệp, Bảo Tiệp, Long Tiệp, Long Dực, Tả ban, Hữu ban. Năm 1378, đời Trần Phế Đế, nhà Trần lập thêm các quân Thần Dực, Thiên Uy, Hoa Ngạch, Thị Vệ, Thần Vũ, Thiên Thương, Thiết Giáp, Thiết Liêm, Thiết Hồ, Ô Đồ. Bộ phận cấm quân nhà Trần ngày càng được tăng thêm và quản lý theo phiên ché phức tạp và chặt chẽ hơn. Về việc rèn luyện và củng cố binh lính, nhà Trần thực hiện các biện pháp: Tuyển dụng theo chính sách “ ngụ binh ư nông” và theo chủ trương : “ Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông”, xây dựng tinh thần đoàn kết trong quân đội. Nhà Trần rất coi trọng binh pháp và kĩ thuật quân sự. Năm 1253, vua Thái Tông cho lập Giảng Võ

đường cho các quan tập trung học và rèn luyện võ nghệ. Quân đội được trau dồi kiến thức và tập luyện võ nghệ thường xuyên. 2.1.3 Luật pháp Năm 1230, Trần Thái Tông ban hành bộ luật Quốc triều thông chế (20 quyển). Nhà nước chú trọng sửa sang, bổ sung luật pháp và ban bộ hành bộ luật mới gọi là Quốc triều hình luật. Cơ quan pháp luật của nhà Trần được tang cường chặt chẽ và hoàn thiện hơn thời Lý. Vua Trần còn cho để chuông trong điện Long Trì cho dân đến kêu oan khi cần. Nhà Trần đặt cơ quan Thẩm hình viện ở triều đình để xét xử việc kiện cáo. Các quan chức xử án cũng được tuyển chọn gắt gao, lấy tiêu chuẩn thẳng thắn, thanh liêm. Pháp luật thời Trần có sự phân chia tầng lớp: Đại quý tộc trước hết là vua và hoàng gia được các đặc quyền và quyền lợi riêng và được pháp luật bảo vệ. Các họ hang nhà Trần nếu phạm tội cũng sẽ bị xử nhẹ hơn. Bắt buộc nô tì của các công chúa và vương hầu phải thích chữ vào trán mang hàm hiệu của chủ nếu không sẽ bị xem là giặc cướp và sung làm quan nô hoặc vào tù. Nô tì không có quyền kết hôn với hoàng tộc. Pháp luật thời Trần xác nhận quyền tư hữu tài sản và nông nghiệp: Xác nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản, đặc biệt là ruộng đất. Năm 1237, triều đình quy định cụ thể “ chúc thư văn khế, nếu là giấy tờ ruộng đất, vay mượn thì người làm chứng in tay ở ba dòng trước, người bán in tay ở bốn dòng sau”. Để khuyến khích nông dân, nhà Trần vẫn giữ luật lệ thời Lý. Cấm giết mổ trâu bò bừa bãi, nếu giết sẽ nộp ba con trâu hoặc bò và đánh 80 trượng, nếu người nhìn thấy mà không cáo lên vua thì sẽ phạt một con trâu hoặc bò và đánh 100 trượng tội che giấu. Các tội trộm cắp bị phạt rất nặng. Lần đầu phạm tội bị đánh 80 trượng, thích chàm vào mặt hai chữ “Phạm đạo” và phải đền cho chủ. Nếu không đền đủ phải gán vợ con làm nô tì, nếu tái phạm sẽ bị chặt tay chân và cuối cùng nếu không sửa đổi thì bị giết. 2.2 Kinh tế 2.2.1 Nông nghiệp Chế độ ruộng đất: Ruộng công gồm 2 bộ phận ruộng công, gồm ruộng đất do triều đình quản lí và ruộng đất công của thôn làng. Trong đó ruộng đất do triều đình quản lí gồm ruộng quốc khố, sơn lăng và tịch điền: Ruộng quốc khố là ruộng công của triều đình mà hoa lợi thu được sẽ dự trữ vào trong kho của vua dùng để chi trả cho hoàng cung. Thời Trần, ruộng quốc khố được đặt ở Cảo Xã (Hà Nội) và những người cày ruộng quốc khổ ở Cảo Xã gọi là Cảo điền hoành và phần đáng kể ruộng làng Cảo là quốc khố do những bị tù tội cày cấy, thân phận của họ rất thấp hèn. Ruộng đất này không chiếm số lớn nhưng cũng là nguồn thu nhập đáng kể cho triều đình; Sơn lăng là loại ruộng dùng vào việc thờ phụng tổ tiên dòng họ nhà vua ở các làng Thái Đường, Thâm Động (Thái Bình), Tức Mặc

(Nam Định), Yên Sinh (Quảng Ninh). Một số quý tộc nhà Trần cũng có ruộng sơn lăng và được duy trì tới nhiều đời sau, gọi là tự điền; Tịch điền là loại ruộng riêng của cung đình và phần lớn hoa lợi đều vào kho riêng của vua. Tổng diện tích ruộng tịch điền cũng rất nhỏ hẹp và không ảnh hưởng gì đến sự phát triển của sản xuất nông nghiệp; Ruộng đất công làng xã là Hương là đơn vị hành chính cấp cơ sở của chính quyền nhà Trần cho đến giữa thế kỉ XVI. Do yêu cầu thu tô thuế, điều động nhân lực phục dịch và tuyển lính nên nhà nước thường kiểm kê dân số. Ruộng công các làng xã thời bấy giờ được gọi là quan điền hay quan điền bản xã và nhà Trần cũng đã có chế độ tô thuế cho loại ruộng công của làng xã; Ruộng đất tư nhân là Thái ấp có chính sách ban cấp ruộng đất và bổng lộc thể hiện dưới hình thức thái ấp. Ban cấp thái ấp là chính sách kinh tế quan trọng nhằm tạo ra cơ sở xã hội cho chính quyền Trần. Năm 1266, điền trang do nhu cầu khẩn trương mở rộng thêm diện tích canh tác. Đây là khu vực kinh tế hỗn hợp của hình thức bóc lột nông nô, nô tì và nông dân lệ thuộc. Năm 1254, ruộng tư của địa chủ là đánh dấu sự ra đời của ruộng đất tư hữu, triều đình ra lệnh bán ruộng công. Tiền tệ thâm nhập mạnh mẽ vào ruộng đất và ruộng đất trở thành hàng hóa mua bán, trao đổi đồng thời tạo ra một tầng lớp đặc biệt là địa chủ thường hay địa chủ thứ dân và một tầng lớp tiểu nông tư hữu nhỏ phổ biến trong xã hội. Lệnh bán đất năm 1254, tiểu nông tư hữu được thi hành đã tạo điều kiện cho các gia đình tiểu nông mua thêm ruộng đất. Việc sở hữu ruộng đất của nông dân chưa ổn định. Vào những năm mất mùa, họ phải bán đất cho địa chủ và không ít người phải trở thành nô tì. Công cuộc trị thủy: Đê điều là Triều đình áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích nông nghiệp, trong đó có làm thủy lợi cho cả nước. Năm 1248, Trần Thái Tông lập ra cơ quan Hà đê, bao gồm chánh sứ và phó sứ sẽ phụ trách đê điều tại các lộ phủ. Việc đắp đê thực hiện từ đầu nguồn đến bờ biển để ngăn lũ, gọi là đê quai vạc. Triều đình bỏ ra rất nhiều tiền cho công trình này, trực tiếp tổ chức đắp đê trên các triền sông. Hiện nay nhiều địa phương ven sông Hồng vẫn còn đê quai vạc, ngoài ra còn có ở Thanh Hóa, Nghệ An. Đê đỉnh nhĩ trên những đê vùng cũ được nhà Trần cho đắp lại và hợp nhất từ đầu nguồn tới bờ biển. Ngoài ra triều đình còn tổ chức đắp đê ngăn nước mặn. Còn thủy lợi công tác thủy lợi cũng được chú trọng. Tại Thanh Hóa và Nghệ An có nhiều công trình. Năm 1233, Trần Thái Tông sai đào kênh Trầm và kênh Hào từ Thanh Hóa đến Diễn Châu. Năm 1248, triều đình lại cho đào thêm sông Mã, sông Lễ và đục núi Chiếu Bạch ở Thanh Hóa. Năm 1256 – 1382 có nhiều còn được khơi dòng. 2.2.2 Thủ công nghiệp

Thủ công nghiệp nhà nước: Nghề gốm là bộ phận quan trọng của quan xưởng. Lò gốm trong các quan xưởng thường sản xu...


Similar Free PDFs