THẢO LUẬN HỢP ĐỒNG 01 PDF

Title THẢO LUẬN HỢP ĐỒNG 01
Author Uyển Nguyên
Course Corporate Law
Institution Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 27
File Size 465.2 KB
File Type PDF
Total Downloads 643
Total Views 885

Summary

Khoa Luật Quốc tế Lớp Luật Thương mại Quốc tế 43.BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤTNGHĨA VỤBộ môn: Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồngGiảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hoàng HảiNhóm: 02Thành viên:1 Vũ Thị Đức 18538010900112 Trần Nguyễn Sơn Giang 18538010900173 Nguyễn Hải Hà 18538010900184 Lê Phạm Thanh H...


Description

Khoa Luật Quốc tế Lớp Luật Thương mại Quốc tế 43.1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT

NGHĨA VỤ Bộ môn: Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Giảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải Nhóm: 02 Thành viên: 1 2 3 4 5 6 7

Vũ Thị Đức Trần Nguyễn Sơn Giang Nguyễn Hải Hà Lê Phạm Thanh Hằng Nguyễn Dương Thu Hương Lê Thanh Huyền Dương Minh Nam

1853801090011 1853801090017 1853801090018 1853801090021 1853801090026 1853801090029 1853801090042

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 08 năm 2019

MỤC LỤC VẤN ĐỀ 01.................................................................................................................... 1 1.1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?...........................................1 1.2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?.....1 1.3. Cho biết điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005 về chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền........................................2 1.4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” theo Bộ luật Dân sự năm 2015? Phân tích từng điều kiện..........................................3 1.4.1. Đối với người thực hiện công việc................................................................3 1.4.2. Đối với người có công việc được thực hiện..................................................5 1.4.3. Đối với công việc: “vì lợi ích của người có công việc”................................6 1.5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong Bộ luật Dân sự năm 2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...............................................................................7 VẤN ĐỀ 02.................................................................................................................. 10 2.1. Thông tư trên [Thông tư liên tịch 01/TTLT của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản] cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào? Qua trung gian là tài sản gì?.....................................................................................10 2.2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................10 2.3. Thông tư trên có điều chỉnh trong việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?...11

2.4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?..........................................................................................12 2.5. Hướng như trên tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?.................................................................................................12 VẤN ĐỀ 03.................................................................................................................. 15 3.1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận?.................................................................................15 3.2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú?............................................................................................................................ 16 3.3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?..............................................................16 3.4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Toà án?............................................17 3.5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...............................................................17 3.6. Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.......18 3.7. Đoạn nào của bản án cho thấy Toà án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?......................................................19 3.8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.......................................................................................20 3.8.1. Xét về điều kiện để chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý.......................20 3.8.2. Xét về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan...................................20 3.9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Toà án................................21

3.10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của người thứ ba thì nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý....................................................................................22 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

VẤN ĐỀ 01 THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN 1.1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền? Điều 574 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) quy định khái niệm “thực hiện công việc không có ủy quyền” như sau: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.” 1.2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ? - Cơ sở pháp lý: Điều 274, khoản 3 Điều 275 BLDS 2015. - Giải thích: Điều 274 BLDS 2015 quy định: “Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).” Có thể thấy, bản chất của quá trình thực hiện công việc có ủy quyền cũng là việc một bên tự nguyện thực hiện công việc của người khác, vì lợi ích của người đó, ý thức rằng nếu không có ai thực hiện công việc này thì người có công việc bị thiệt hại một số lợi ích vật chất nhất định. Mục đích cuối cùng của hành vi này là nhằm mang lại lợi ích cho người có công việc. Như vậy, quá trình này đương nhiên là căn cứ để phát sinh nghĩa vụ cho cả hai bên. Trong trường hợp này, xuất phát từ yếu tố chủ động và tự nguyện khi thực hiện công việc, pháp luật không buộc người thực hiện tạo ra lợi ích thực tế, nhưng buộc người có công việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền thù lao, thanh toán các chi phí hợp lý mà

2

người thực hiện công việc đã bỏ ra, ngay cả khi kết quả công việc được thực hiện đó không như ý muốn (theo Điều 576 BLDS 2015). Bên cạnh đó, thực hiện công việc không có ủy quyền còn làm phát sinh nghĩa vụ thực hiện và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho chính người thực hiện công việc. Bằng việc tự ý, tự nguyện thực hiện phần việc của người khác, người thực hiện công việc sẽ có những nghĩa vụ nhất định đối với chính công việc mình thực hiện, cũng như với người có công việc được thực hiện (theo Điều 575, 577 BLDS 2015). Tuy không bắt buộc phải tạo ra kết quả mà đối phương mong muốn đạt được, bản thân người thực hiện công việc phải cố gắng thực hiện tốt nhất có thể, cũng như chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, v.v. để tránh trường hợp những quy định này bị lợi dụng nhằm mục đích tiêu cực riêng. 1.3. Cho biết điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005 về chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền. Nhìn chung, chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” ở BLDS 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) có hai điểm mới nổi bật như sau: Thứ nhất, BLDS 2015 đã bỏ đi từ “hoàn toàn” khi quy định về khái niệm “thực hiện công việc không có ủy quyền”. BLDS 2005 yêu cầu công việc được thực hiện phải “hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện” (Điều 594 BLDS 2005). Cách quy định này có thể được hiểu theo hai nghĩa: “Nghĩa thứ nhất là người thực hiện công việc hoàn toàn không có lợi ích trong công việc mà họ thực hiện và tất cả phải vì lợi ích của người có công việc được thực hiện.”1 hoặc “Nghĩa thứ hai là việc thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện không ngoại trừ khả năng người tiến hành công việc cũng có lợi ích từ việc thực hiện.”2 Trong thực tiễn xét xử, đã có nhiều trường hợp người có công việc được thực hiện dựa vào hai chữ “hoàn toàn” này để lý giải theo nghĩa thứ nhất, đưa ra cơ sở rằng việc thực hiện không có ủy quyền đó vẫn có yếu tố vì lợi ích của người thực hiện công 1 Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án (Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba) (Tập 1), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.73-74. 2 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.74.

3

việc. Đây là cách giúp người có công việc chối bỏ nghĩa vụ thanh toán của mình, tạo nên bất cập lẫn thiệt thòi cho người thực hiện công việc trong quá trình xét xử. Chính vì vậy, việc BLDS 2015 bỏ đi hai chữ “hoàn toàn” là để củng cố cho cách hiểu thứ hai, nhằm tăng cường bảo đảm quyền lợi cho người thực hiện công việc. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để Tòa án linh hoạt hơn trong việc xét xử các vụ việc liên quan đến “thực hiện công việc không có ủy quyền”, hạn chế tranh cãi, nhập nhằng trong quá trình xét xử. Thứ hai, BLDS 2015 đã phân định rõ đối tượng thực hiện công việc có ủy quyền có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Tại khoản 4 Điều 575 quy định về “nghĩa vụ thực hiện công việc” (Điều 595 BLDS 2005) và khoản 4 Điều 578 về “chấm dứt thực hiện nghĩa vụ” (Điều 598 BLDS 2005), với sự xuất hiện của “cá nhân” và “pháp nhân” (làm rõ các đối tượng “người thực hiện nghĩa vụ”). Việc bổ sung này góp phần tăng thêm tính cụ thể, chi tiết của Bộ luật Dân sự, giúp cho quá trình xét xử được diễn ra thuận lợi, chính xác và nhanh chóng hơn. Như vậy, tuy không có nhiều điểm mới so với BLDS 2005, BLDS 2015 đã thành công khắc phục điểm hạn chế (lỗ hổng) khi quy định về chế định “thực hiện nghĩa vụ không có ủy quyền”. Từ đó, BLDS 2015 đã củng cố bảo vệ quyền lợi cho người thực hiện công việc, giúp Tòa án có cơ sở giải quyết tranh chấp một cách hợp lý, đưa pháp luật dân sự Việt Nam phát triển bắt kịp xu hướng với luật pháp các nước tiến bộ trên thế giới. 1.4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” theo Bộ luật Dân sự năm 2015? Phân tích từng điều kiện. BLDS 2015 không có điều khoản riêng để quy định về điều kiện áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”. Tuy nhiên, từ khái niệm được nêu ra ở Điều 574 BLDS 2015, chúng ta có thể suy ra những điều kiện cơ bản sau đây: 1.4.1. Đối với người thực hiện công việc. - Người thực hiện công việc không có nghĩa vụ: Khi quy định người thực hiện công việc không có ủy quyền là “người không có nghĩa vụ thực hiện công việc”, BLDS 2015 đã tạo ra hai hướng giải thích khác nhau.

4

Có quan điểm cho rằng, quy định này nói đến “người hoàn toàn không có nghĩa vụ phải thực hiện công việc đó những đã thực hiện công việc đó. Nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ do các bên thỏa thuận”3. Song, cách hiểu này lại dẫn đến những bất cập nhất định trong thực tiễn xét xử. Đơn cử như trường hợp “công việc được thực hiện theo yêu cầu của người thứ ba hay theo thỏa thuận của người thứ ba, hay theo luật định”, thì chúng ta có được áp dụng chế định này hay không?4 Trong nhiều vụ việc xảy ra trong thực tế, khi xảy ra trường hợp như trên, Tòa án vẫn áp dụng chế định này để tiến hành xét xử. Như vậy, cách hiểu phù hợp nhất cho điều kiện này phải là không có nghĩa vụ thực hiện “giữa người thực hiện công việc và người có công việc được thực hiện”5, mà không xét đến sự tồn tại nghĩa vụ giữa người thực hiện với bên thứ ba hay theo luật định (nếu có). Mặt khác, chúng ta cũng cần làm rõ rằng, nếu trong một số trường hợp người thực hiện nghĩa vụ có căn cứ pháp luật, nhưng không biết về quy định pháp luật tương ứng mà làm vì sự tự nguyện, lòng nhân ái, thì điều kiện “không có nghĩa vụ” này còn được đảm bảo hay không? Có ý kiến cho rằng, BLDS 2015 đã có quy định về bồi thường thiệt hại do tình thế cấp thiết để “tạo cơ chế ràng buộc người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho thiệt hại mà họ gây ra.”6 (ở đây là người có công việc được thực hiện với người thực hiện công việc). Song, giả sử như không thể chứng minh được yếu tố “tình huống cấp thiết”, và thực hiện công việc đó vẫn được xem là nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, thì trong khi tổ chức, thực hiện công việc nếu có tốn kém chi phí, việc đơn phương tạm ứng tiền riêng của mình để trả chi phí cũng có thể coi được là thực hiện công việc không có ủy quyền7. - Thực hiện công việc một cách tự nguyện: 3 Hoàng Thế Liên (Chủ biên) (2008), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005 (Tập 2), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.699. Trích từ: Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.72. 4 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.73. 5 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.73. 6 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Bình luận án), Lê Minh Hùng, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.34-35. 7 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (6), tr.35.

5

Một trong những điều kiện chủ chốt để xác định có nghĩa vụ phát sinh từ thực hiện công việc không ủy quyền, là khi một chủ thể thực hiện công việc của người khác. Xét trong tương quan với hành vi pháp lý đơn phương (cùng là hành động xuất phát từ một phía), BLDS 2015 không đặt ra yêu cầu về năng lực chủ thể cho người thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong khi đó, để hành vi pháp lý đơn phương được pháp luật công nhận, nó phải đảm bảo thỏa điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự (điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS 2015). Như vậy, “ai cũng có thể là người thực hiện công việc không có ủy quyền”8. Mặt khác, thực hiện công việc không có ủy quyền lại đòi hỏi về tính “tự nguyện”, tương tự như quy định tại điểm b khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: “chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện”. Điểm cần lưu ý ở đây là, nếu người thực hiện công việc một cách “ngẫu nhiên, không có chủ ý, hoặc thiếu tự nguyện (ví dụ do bị ép buộc hay nhầm lẫn)”9, thì sẽ không được xem là thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong trường hợp đó, nghĩa vụ thanh toán của người có công việc được thực hiện cho người thực hiện công việc chỉ được phát sinh nếu người có công việc nhận được lợi ích (trong trường hợp này được xem là không có căn cứ pháp luật). Đây là nghĩa vụ hoàn trả theo khoản 2 Điều 579 BLDS 2015, khác biệt với nghĩa vụ thanh toán của người có công việc được thực hiện không có ủy quyền, được quy định tại Điều 576 Bộ luật này. 1.4.2. Đối với người có công việc được thực hiện. - Không yêu cầu đối phương thực hiện công việc: Điều kiện này có thể hiểu rằng giữa người thực hiện công việc và người có công việc được thực hiện “không tồn tại một hợp đồng, không có ủy quyền”10. Nếu giữa hai bên đã có sự thỏa thuận trước đó, hoặc có thể hiện sự đồng ý song phương thì “vẫn được xem như có sự tạo lập hợp đồng”11. Mặt khác, trong trường hợp ban đầu người có công việc không ủy quyền cho bên thứ ba nhân danh họ xác lập giao dịch với người 8 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.72. 9 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (6), tr.36. 10 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.74. 11 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (6), tr.38.

6

được thực hiện công việc, mà bên thứ ba vẫn xác lập giao dịch, sau đó người có công việc mới biết và đồng ý, thì không được xem là “thực hiện công việc không có ủy quyền”. Đây là trường hợp “xác lập giao dịch do không có quyền đại diện”, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ với người được đại diện (mà ở đây là người có công việc được thực hiện) theo khoản 1 Điều 142 BLDS 2015. - “Không biết hoặc biết mà không phản đối”: Đây là điều kiện được suy ra từ khái niệm ở Điều 574 BLDS 2015. Điều kiện này tương ứng với khoản 1 Điều 578 Bộ luật này về Chấm dứt thực hiện công việc không có ủy quyền theo yêu cầu của người có công việc được thực hiện. Trong trường hợp bị phản đối mà vẫn tiếp tục thực hiện thì “không thuộc chế độ này”12. Khi đó, việc cố tình tiếp tục thực hiện có thể bị xem là hành vi “trái pháp luật”, phải bồi thường thiệt hại dựa trên quy định tại khoản 7 Điều 8 BLDS 2015. Bên cạnh đó, việc quy định “không phản đối” ở đây không đồng nghĩa với “đồng ý”, vì không được quy định trong pháp luật dân sự hiện hành. Cần phân biệt rằng, trong trường hợp xác lập giao dịch do không có quyền đại diện, luật quy định “người được đại diện biết mà không phản đối trong thời hạn hợp lý” thì vẫn được xem là “đồng ý”, “tức làm phát sinh hệ quả pháp lý với hành vi đại diện”13. Như vậy, khác với trường hợp “thực hiện công việc không có uỷ quyền” (chỉ cần có sự phản đối thì phải chấm dứt thực hiện); việc phản đối một “giao dịch do không có quyền đại diện” nhưng quá thời hạn (khi công việc đã được thực hiện gần xong hoặc xong) thì không được chấp nhận, và giao dịch đó vẫn được xem là có hiệu lực. Có thể thấy rằng, điều kiện “không phản đối” trong chế định “thực hiện công việc không có uỷ quyền” có tính tuyệt đối cao hơn hẳn các chế định khác. 1.4.3. Đối với công việc: “vì lợi ích của người có công việc”. Như đã phân tích ở câu 3, điểm mới khi quy định về vấn đề này giữa BLDS 2015 so với BLDS 2005 (bỏ đi chữ “hoàn toàn”), đã mở rộng phạm vi đối tượng nhận được lợi ích từ việc “thực hiện công việc không có thẩm quyền”. Ở đây, pháp luật dân sự không hạn chế sự lợi ích (nếu có) của người thực hiện công việc, bên thứ ba hoặc 12 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.74. 13 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (6), tr.41.

7

cộng đồng. Tức là, chỉ cần đảm bảo “khi thực hiện công việc chủ yếu là vì lợi ích của người có công việc, thì hành vi đó được coi là thực hiện công việc không có uỷ quyền”14. Mặt khác, căn cứ xác định có tồn tại yếu tố lợi ích ở đây, không cần là một kết quả xác định, phù hợp với mong muốn của người có công việc được thực hiện. Nói cách khác, chỉ cần việc thực hiện công việc này xuất phát từ sự tự nguyện, nhằm đem lại lợi ích cho người có công việc cần thực hiện, đảm bảo các quy định về nghĩa vụ thực hiện công việc (quy định tại Điều 575 BLDS 2015), thì người có công việc phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình, kể cả khi “công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình” (khoản 1 Điều 576 BLDS 2015). 1.5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong Bộ luật Dân sự năm 2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. Sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện nghĩa vụ theo quy định của chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”, mà cụ thể ở đây là nghĩa vụ thanh toán theo Điều 576 BLDS 2015. Cơ sở pháp lý: Điều 574 đến Điều 576 BLDS 2015. Ở vụ việc trên, để chứng minh rằng A có nghĩa vụ thanh toán cho C theo quy định tại Điều 576 BLDS 2015, ta cần làm rõ việc xây dựng công trình của C có thuộc trường hợp “thực hiện công việc không có ủy quyền” hay không? Như lập luận phân tích của nhóm trong câu 4, việc làm C đáp ứng đầy đủ các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” (Điều 574 BLDS 2015). Cụ thể: - Về phía nhà thầu C: + Trong hợp đồng ký kết giữa B và C không nêu rõ B đại diện cho A, cũng như A chưa từng ủy quyền cho B thực hiện giao kết hợp đồng này với C, chưa từng thể hiện sự đồng ý của mình với giao dịch này (dữ liệu không hề đề cập đến việc C...


Similar Free PDFs