Thảo luận Luật Hợp đồng và bồi thường ngoài hợp đồng lần 2 PDF

Title Thảo luận Luật Hợp đồng và bồi thường ngoài hợp đồng lần 2
Author Won Tina
Course Luật hợp đồng
Institution Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 11
File Size 259.5 KB
File Type PDF
Total Downloads 37
Total Views 794

Summary

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHBUỔI THẢO LUẬN LẦN 2MÔN: HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠINGOÀI HỢP ĐỒNGNhóm 3MSSV Họ và tên 2053401020236 Nguyễn Triều Minh Trang 2053401020238 Võ Thị Thuỳ Trang 2053401020240 Lê Thành Triệu 2053401020241 Lê Thị Tuyết Trinh 2053401020243...


Description

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BUỔI THẢO LUẬN LẦN 2 MÔN: HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG Nhóm 3

Họ và tên MSSV 2053401020236 Nguyễn Triều Minh Trang 2053401020238 Võ Thị Thuỳ Trang 2053401020240 Lê Thành Triệu 2053401020241 Lê Thị Tuyết Trinh 2053401020243 Nguyễn Thị Thái Trinh 2053401020244 Lê Anh Trung 2053401020245 Trần Ngọc Trung 2053401020246 Nguyễn Trường 2053401020247 Sơn Thanh Truyền 2053401020248 Bùi Cẩm Tú Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 3 năm 2022

1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI: VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG ***************************

Vấn đề 1: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng Nghiên cứu: - Điều 394, Điều 400 BLDS 2015 và các quy định liên quan khác (nếu có); - Tình huống: Tháng 1 năm 2018, A (pháp nhân), B (cá nhân) và C (cá nhân) gửi cho D một đề nghị giao kết hợp đồng (là điều khoản về phương thức giải quyết tranh chấp, bằng văn bản và có chữ ký của cả 3 chủ thể). Tháng 1 năm 2020 và tháng 2 năm 2020, D đã gửi cho A và B chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của mình nhưng D không chứng minh được đã gửi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho C (C không thừa nhận đã nhận được chấp nhận đề nghị giao kết của D). Sau đó, các bên có tranh chấp về sự tồn tại của Hợp đồng (thỏa thuận về giải quyết tranh chấp) và Tòa án đã xét rằng: (1) bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo quy định của Điều 400 BLDS 2015; (2) chấp nhận chưa được thực hiện trong thời hạn hợp lý theo quy định của Điều 394 BLDS 2015 và (3) chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới. Có tách buộc A, B, C ra với nhau còn tùy thuộc ND hđ => tách ra đc. Tuy nhiên, có trg hợp ko tách đc. VD: ABC đồng sở hữu tài sản Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên.  Notes: điều quan trọng để xác định thời hạn hợp lí => ND hđ=> Tìm hiểu về điều khoản giải quyết tranh chấp - Đối với quyết định số 1 của TA theo em là phù hợp, vì thời điểm hợp đồng được giao kết là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận. Tuy nhiên, trong hợp đồng A, B, C là người đề nghị và đều ký tên, nhưng chỉ có A, B nhận được trả lời của D còn C thì không (D không chứng minh được và C cũng không nhận

2

được). Vì vậy lúc này hợp đồng được xem là chưa giao kết vì một trong các bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết của D. - Đối với quyết định số 2 của TA, theo em là chưa hoàn toàn phù hợp. Bởi lẽ, trên thực tế, hợp đồng này không thỏa thuận về thời hạn trả lời, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 394 BLDS 2015 thì sẽ phải trả lời trong một thời hạn hợp lý. Tuy nhiên thế nào là thời hạn hợp lý thì nó phải phụ thuộc vào tình huống cụ thể. Tình huống trên thì D đã trả lời chấp nhận đề nghị giao kết của A, B sau 2 năm. Nếu sự trả lời này của D đã trễ và hợp đồng không thể thực hiện được thì thời hạn trả lời trên được xem là không hợp lý. Còn nếu khi trả lời chấp nhận, A, B vẫn đồng ý và hợp đồng có thể tiến hành thì đó được xem là thời hạn hợp lý. - Đối với quyết định số 3 của TA, theo em là chưa hợp lý. Bởi vì căn cứ vào khoản 1 Điều 394 BLDS 2015 thì lời chấp nhận giao kết hợp đồng chỉ được xem là đề nghị mới khi giữa 2 bên có sự ấn định thời hạn trả lời. Trong trường hợp này, hợp đồng giữa các bên không có sự ấn định thời hạn trả lời, vì vậy không thể xem đây là lời đề nghị giao kết mới. Vấn đề 2: Sự ưng thuận trong quá trình giao kết hợp đồng Nghiên cứu: - Điều 393, Điều 396 BLDS 2015 (Điều 404 BLDS 2005) và các quy định liên quan khác (nếu có); - Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; - Tình huống: Năm 2001, bà Chu và ông Bùi chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ (gồm 7 nhân khẩu) cho ông Văn. Năm 2004, ông Văn đã xây dựng chuồng trại trên đất chuyển nhượng, các bên làm thủ tục chuyển nhượng để ông Văn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và gia đình bà Chu, ông Bùi không ai có ý kiến gì. Tuy nhiên, nay các con bà Chu và ông Bùi yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch chuyển nhượng vô hiệu vì chưa có sự đồng ý của họ và Tòa án đã áp dụng Án lệ số 04/2016/AL.

3

Và cho biết: Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng?  Ngoại lệ: thỏa thuận, thói quen => Về việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng: Theo Khoản 2 Điều 404 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về thời điểm giao kết hợp đồng dân sự thì: “2. Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.” Như vậy, theo quy định của BLDS 2005 quy định im lặng là chấp nhận, đồng ý khi các bên có thỏa thuận. Còn theo Khoản 2 Điều 393 BLDS 2015 quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thì: “2. Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên.” Như vậy, theo quy định của BLDS hiện hành trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen được xác lập giữa các bên thì ngoài ra sự im lặng trong giao kết không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Ở đây BLDS 2015 theo hướng thông thường im lặng không là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhưng có ngoại lệ, khi theo thỏa thuận hay thói quen của các bên, im lặng vẫn là đề nghị giao kết hợp dồng. Ngoài hai ngoại lệ này chúng ta nên hướng bản thân im lặng không là chấp nhận nhưng nếu bên cạnh sự im lặng là biết nhưng không nói gì mà có yếu tố khác như giao hàng, trả tiền, lời đề nghị hoàn toàn vì lợi ích của người được đề nghị thì vẫn có thể chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. - Về thời điểm giao kết hợp đồng BLDS 2005 quy định Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết. (khoản 2 Điều 404 BLDS 2005). BLDS 2015 thì quy định nếu hai bên thỏa thuận im lặng là sự chấp nhận giao kết thì thời điểm giao kết hợp đồng sẽ là thời điểm cuối cùng của thời hạn (Khoản 2 Điều 400 BLDS 2015).

4

- Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển nhượng trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?  Đối với trg hợp con chưa thành niên, thì xác lập giao dịch thg qua ng đại diện (giám hộ) => Ý chí của bố mẹ cũng là ý chí của con => Theo em, việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển nhượng trên là thuyết phục. Vì: - Căn cứ vào khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau…”. - Theo Án lệ số 04/2016 thì việc ông Ngự chuyển nhượng nhà, đất cho ông Tiến, bà Tý và bà Phấn (vợ ông Ngự) không có ý kiến gì. Và theo lời khai của các người con ông Ngự, bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất cho vợ chồng bà Tý, ông Ngự, bà Phấn đã phân chia vàng cho các người con. Mặt khác, sau khi chuyển nhượng và giao nhà đất cho ông Tiến, bà Tý thì ngày 26-4-1996, ông Ngự còn viết “giấy cam kết” có nội dung mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên phần đất còn lại và trong thực tế vợ chồng bà Phấn, ông Ngự đã sử dụng phần nhà đất của bà Tý, ông Tiến khi xây dựng nhà. Như vậy, có cơ sở xác định bà Phấn biết có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ông Ngự với vợ chồng ông Tiến và bà Tý, bà Phấn đã đồng ý. - Tình huống trên cũng tương tự khi ông Chu và bà Bùi chuyển nhượng nhà, đất cho ông Văn. Năm 2004, ông Văn đã xây dựng chuồng trại trên đất chuyển nhượng, các bên làm thủ tục chuyển nhượng để ông Văn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và gia đình bà Chu, ông Bùi không ai có ý kiến gì. Điều này có căn cứ để cho thấy các con ông Chu phải biết việc này nhưng không phản đối. Chính vì vậy việc yêu cầu ông Văn trả lại nhà, đất trên là không có căn cứ. => Như vậy, ta thấy Án lệ 04/2016/AL và tình huống trên là hai vụ việc tương tự nhau cho nên việc áp dụng án lệ 04/2016/AL cho tình huống này là hợp lý. Vấn đề 3: Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được

5

Nghiên cứu: - Điều 408 BLDS 2015 (Điều 411 BLDS 2005) và các quy định liên quan (nếu có); - Tình huống: Ông A thế chấp quyền sử dụng đất của mình cho Ngân hàng. Hợp đồng thế chấp đã được xác lập phù hợp với quy định về hình thức, đăng ký nhưng trên đất có căn nhà thuộc sở hữu của người khác (không thuộc tài sản thế chấp). Khi có tranh chấp, Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được. Và cho biết: - Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu; Điều 411 BLDS 2005 Điều 408 BLDS 2015 - Trong trường hợp ngay từ khi - Trường hợp ngay từ khi giao kết, ký kết, hợp đồng có đối tượng hợp đồng có đối tượng không thể không thể thực hiện được vì lý do thực hiện được thì hợp đồng này bị khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu. vô hiệu.  Quy định “trong trường hợp  Quy định “trong trường ngay từ khi giao kết” hợp ngay từ khi ký kết”  Lược bỏ cụm “vì lý do khách  Hợp đồng chỉ bị vô hiệu quan” khi có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan. Quan điểm của em về sự thay đổi : => So với quy định trước đây của BLDS 2005, Điều 408 BLDS 2015 đã xoá bỏ cụm từ “nguyên nhân khách quan”, do đó theo tinh thần của BLDS 2015 thì khi hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng bị vô hiệu bất kể việc đó xuất phát từ nguyên nhân khách quan hay chủ quan. Điều 408 BLDS 2015 đã nêu rõ hợp đồng chỉ bị vô hiệu khi có đối tượng không thể thực hiện được “ngay từ khi giao kết”. Đây là một điểm khác so với Điều 411 BLDS 2005. Mặc dù có chung cách tiếp cận nhưng Điều 411 BLDS 2005 sử dụng thuật ngữ “ngay từ

6

khi ký kết” khiến cho phạm vi áp dụng của điều luật này bị thu hẹp và gây tranh cãi bởi lẽ “ký kết” chỉ phù hợp với hợp đồng được xác lập bằng hình thức văn bản. -

Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao? Không nên áp dụng thời hiệu vì nếu áp dụng thì sau khi hết thời hiệu trg khi đối tg chắc chắn ko thực hiện đc sẽ mất quyền khởi kiện => bị ràng buộc và không thoát ra đc HĐ => Thay đổi câu trl

- Căn cứ vào Điều 407 BLDS 2015 thì các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 132 để xác định thời hiệu cho hợp đồng vô hiệu trong trường hợp này là không phù hợp. Bởi lẽ Điều 132 không quy định bao gồm cả Điều 408 BLDS về hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thực hiện được. - Vì thế, theo em, trong trường hợp này, cần áp dụng quy định tại Điều 429 BLDS 2015 về thời hiệu khởi kiện chung cho lĩnh vực hợp đồng là 3 năm. Bởi vì: + Thứ nhất, về hình thức, Điều 429 mặc dù được đặt ở cuối Tiểu mục 3 “Sửa đổi, chấm dứt hợp đồng”, nhưng cần phải hiểu một cách rộng hơn rằng điều luật này nằm cuối Mục 7 “Hợp đồng”. Do đó, Điều 429 phải được coi là quy định chung cho lĩnh vực hợp đồng và có thể được áp dụng cho tất cả các Tiểu mục của Mục này nếu không có quy định khác, bao gồm: giao kết hợp đồng; thực hiện hợp đồng; sửa đổi, chấm dứt hợp đồng. + Thứ hai, phạm vi áp dụng của Điều 429 trên thực tế không bị giới hạn trong các tranh chấp về sửa đổi, chấm dứt hợp đồng mà được áp dụng đặc biệt là đối với các tranh chấp liên quan đến thực hiên hợp đồng, nghĩa vụ bồi thường trong hợp đồng. Do đó, không có lý do gì để hạn chế việc áp dụng Điều 429 đối với các tranh chấp liên quan đến giao kết hợp đồng nếu không có các quy định khác. 1

1 Tham khảo tại: Tapchitoaan.vn

7

-

Toà án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được có thuyết phục không? Vì sao?

Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được là không thuyết phục. Vì đối tượng của hợp đồng ở đây là quyền sử dụng đất của ông A không thuộc nhóm các đối tượng không thể thực hiện được gồm: đối tượng không còn tồn tại, đối tượng không thể thực hiện được một cách tuyệt đối và khách quan, đối tượng không được xác định rõ ràng. Tài sản thế chấp ở đây là quyền sử dụng đất, còn căn nhà ở trên thì không phải tài sản thế chấp nên căn nhà không ảnh hưởng đến việc ông A thế chấp quyền sử dụng đất của mình. Căn cứ vào khoản 2 Điều 325 quy định về việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất: “Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của mình; quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp trong mối quan hệ với chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người nhận chuyển quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Qua quy định trên có thể thấy khi ông A thế chấp quyền sử dụng đất của mình thì không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu của căn nhà khi người đó vẫn được tiếp tục sử dụng căn nhà trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của mình. Vậy có thể thấy việc Tòa án tuyên hợp đồng thế chấp của ông A vô hiệu là không hợp lý.

Vấn đề 4: Xác lập hợp đồng có giả tạo và nhằm tẩu tán tài sản Nghiên cứu: - Điều 124 BLDS 2015 (Điều 129 BLDS 2005) và các quy định liên quan (nếu có); - Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Toà án nhân dân TP. Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương; - Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

8

Và cho biết: * Đối với vụ việc thứ nhất - Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch? => Giả tạo trong xác lập giao dịch là việc thực hiện giao dịch mà trong đó các bên hoàn toàn tự nguyện xác lập giao dịch nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không đúng với ý chí đích thực của họ (có sự tự nguyện nhưng không có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí). Có hai loại giao dịch dân sự giả tạo: - Thứ nhất, giao dịch được xác lập để che giấu một giao dịch dân sự khác (bên trg). Ví dụ: A bán cho B một căn nhà với giá 2 tỷ. Nhưng khi xác lập hợp đồng chỉ ghi giá trị ngôi nhà là 1 tỷ để giả số thuế gian lận việc nộp phí trước bạ sang tên. - Thứ hai, giao dịch được xác lập nhưng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng. Ví dụ: A phạm tội tham nhũng bị phát hiện, để tẩu tán tài sản A thỏa thuận với B ký hợp đồng giả bán ngôi nhà của A cho B để tránh bị kê biên tài sản. - Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì? => Đoạn cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng là: Xét thấy, sau khi lập giấy thỏa thuận mua bán đất ngày 21/11/2013 các bên chưa đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục theo quy định. Theo đơn khởi kiện ban đầu nguyên đơn yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng nhưng sau đó nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng ngày 23/11/2013 giữa nguyên đơn và bà Trang là vô hiệu vì đây là giao dịch giả tạo che giấu cho việc vay mượn và buộc bà Trang trả lại cho nguyên đơn số tiền đã nhận là 95.000.000 đồng. Xét, theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì ”Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che dấu cho một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này”. Đối chiếu quy định trên với trường hợp giữa nguyên đơn với bà Trang thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập ngày 23/11/2013 giữa nguyên đơn

9

và bà Trang là vô hiệu do giả tạo và giao dịch vay tài sản số tiền 100.000.000 đồng có hiệu lực” - Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích nhằm che giấu hợp đồng cho vay tiền giữa bà Thúy và bà Trang. - Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu => Hướng giải quyết của Tòa án là: - Đối với hợp đồng giả tạo (hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất giữa bà Thúy và bà Trang) thì Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu. - Đối với hợp đồng bị che giấu (hợp đồng bà Trang vay bà Thúy 100 triệu) thì Tòa án tuyên bố hợp đồng đó có hiệu lực và buộc bà Trang trả nốt 95 triệu cho bà Thúy. - Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu. => Vì các bên đều thuận tình công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là giả tạo nên không cần thu thập thêm chứng cứ chứng minh đây là hợp đồng giả tạo, do đó, Tòa án giải quyết như vậy là xác đáng. Từ đó, Tòa án xét xử theo Điều 124 BLDS 2015 thì yêu cầu các bên vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng bị che giấu. Và vì bà Trang không cung cấp được chứng cứ chứng minh đã trả 180.000.000 trong 6 tháng nên yêu cầu bà Trang phải trả cho bà Thúy 95.000.000 là hợp lý. * Đối với vụ việc thứ hai - Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu? => Bởi vì: - Vợ chồng bà Anh đang còn nợ bà Thu 3,1 tỷ đồng và cam kết chuyển nhượng nhà đất (đang có tranh chấp) cho bà Thu nhưng lại chuyển cho vợ chồng ông Vượng (là anh trai của bà Anh) nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà Thu.

10

- Giá thực tế của nhà đất trên là 5,6 tỷ đồng nhưng vợ chồng bà Anh lại chuyển nhượng cho ông Vượng với giá 680 triệu đồng, với giá như vậy thì không hề phù hợp với thực tế. Chuyển nhượng với giá như vậy là để trốn tránh nghĩa vụ đóng thuế đúng theo giá trị phải đóng, là cơ sở giúp cho việc tẩu tán tài sản, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà Thu diễn ra thuận lợi hơn. => Vì vậy mà Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu. - Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn tránh nghĩa vụ)? => Hướng xác định trên của Tòa án là hoàn toàn hợp lí. Xác định chính xác như vậy là cơ sở ngăn chặn việc bà Anh tẩu tán tài sản để trì hoãn hoặc trốn tránh trả nợ, buộc bà Anh thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà Thu. Như thế thì mới bảo vệ được quyền lợi chính đáng của bà Thu. - Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ. => Với việc xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ thì hậu quả sẽ là hợp đồng trên bị vô hiệu theo khoản 2 Điều 124 BLDS 2015. Và khi giao dịch dân sự trên bị vô hiệu thì sẽ áp dụng Điều 132 BLDS 2015 để giải quyết....


Similar Free PDFs