TIỂU-LUẬN-TRIẾT - Good PDF

Title TIỂU-LUẬN-TRIẾT - Good
Author Con Gà
Course Kinh tế chính trị
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 16
File Size 305.2 KB
File Type PDF
Total Downloads 365
Total Views 873

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN-------***-------BÀI TẬP LỚN MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNINĐỀ TÀI: Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó rút ra ý nghĩa của phương pháp luận.Họ và tên: Vũ Cẩm Trang Lớp: Quản trị k...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

ĐỀ TÀI: Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó rút ra ý nghĩa của phương pháp luận.

Họ và tên: Vũ Cẩm Trang Lớp: Quản trị kinh doanh quốc tế CLC 61A Mã SV: 11195441 GVHD: TS. NGHIÊM CHÂU GIANG

HÀ NỘI, NĂM 2020

1

PHỤ LỤC PHẦN I: MỞ ĐẦU................................................................................ PHẦN II: NỘI DUNG.......................................................................... 1. Cơ sở lý luận................................................................................................... 1.1 Các khái niệm.............................................................................................. 1.1.1 Phương thức sản xuất.................................................................................. 1.1.2 Lực lượng sản xuất...................................................................................... 1.1.3 Quan hệ sản xuất........................................................................................ 1.2 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất............................................................................................. 1.2.1 Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi lực lượng sản xuất........................................................................... 1.2.2 Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất........................................................................

2. Ý nghĩa của phương pháp luận trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.............................................................................................................. 2.1 Những sai lầm về việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất thời kì trước đổi mới................................................................... 2.2 Sự vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay............................................................................

PHẦN III: KẾT LUẬN........................................................................ PHẦN IV: TƯ LIỆU THAM KHẢO..................................................

2

PHẦN I: MỞ ĐẦU Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển của những phương thức sản xuất kế tiếp từ thấp đến cao. Mà lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng và tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển xã hội. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến, tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. C.Mác đã từng khẳng định: “Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” i. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây chúng ta đã không có được sự nhận thức đúng đắn về quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Cơ chế quan liêu, bao cấp đã bóp méo các yếu tố của quan hệ sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất. Kết quả của sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã làm cho mâu thuẫn giữa chúng trở nên gay gắt. Điều đó khiến cho nền kinh tế Việt Nam phải ở tình trạng khủng hoảng, trì trệ một thời gian dài. Vì vậy nghiên cứu “Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam" có vai trò quan trọng mang tính cấp thiết cao vì thời đại ngày nay chính là sự phát triển của nền kinh tế thị trường hàng hoá nhiều thành phần. Nghiên cứu vấn đề này chúng ta còn thấy được ý nghĩa lý luận cũng như thực tiễn của nó hết sức sâu sắc. 3

PHẦN II: NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận 1.1 Các khái niệm 1.1.1 Phương thức sản xuất Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức nhất định, tức là nó có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng của mình, đó là phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Phương thức sản xuất đóng vai trò nhất định đối với tất cả mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội.

1.1.2 Lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt. Đó là mặt kinh tế - xã hội (người lao động) và mặt kinh tế- kĩ thuật (tư liệu sản xuất). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao động sống” và “lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kì nhất định. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người. Ngày nay, khi khoa học phát triển mạnh mẽ và nó được vận dụng nhanh chóng, rộng rãi, trực tiếp vào trong quá trình sản xuất thì cùng với công nghệ hiện đại nó đã trở thành

4

một thành tố mới trong lực lượng sản xuất, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của lực lượng sản xuất của nhân loại và quy định nội dung mới của sức sản xuất xã hội trong thời đại ngày nay. Chính vì lẽ đó mà Đảng ta quan niệm “cùng với giáo dục, đào tạo khoa học công nghệ phải được coi là quốc sách hàng đầu”.

1.1.3 Quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất quan trọng nhất – quan hệ kinh tế, trong mối quan hệ vật chất giữa người với người. Quá trình sản xuất vật chất chính là tổng thể các yếu tố trong một quá trình thống nhất, gồm sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng sự hình thành và phát triển một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí con người. Nếu như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của sản xuất thì quan hệ sản xuất lại là mặt xã hội của sản xuất. Quan hệ sản xuất gồm có 3 mặt:  Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu (gọi tắt là quan hệ sở hữu).  Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức, quản lý xã hội và trao đổi hoạt động cho nhau (gọi tắt là quan hệ tổ chức, quản lý).  Quan hệ giữa người với người trong phân phối, lưu thông sản phẩm làm ra (gọi tắt là quan hệ phân phối sản phẩm). Trong ba mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu là quan hệ cơ bản và đặc trưng cho từng xã hội. Quan 5

hệ về sở hữu quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối các sản phẩm làm ra. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất thì giai cấp đó là giai cấp thống trị; giai cấp ấy đứng ra tổ chức, quản lý sản xuất và sẽ quyết định tính chất, hình thức phân phối, cũng như quy mô thu nhập. Ngược lại giai cấp nào không có tư liệu sản xuất thì sẽ là giai cấp, tầng lớp bị thống trị, bị bóc lột và bị buộc phải làm thuê, bị bóc lột dưới nhiều hình thức khác nhau.

1.2 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 1.2.1 Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi lực lượng sản xuất Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau bởi chúng là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất đóng vai trò nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội. Thực tế chứng minh, không một quá trình sản xuất nào có thể thiếu đi một trong hai yếu tố hình thức xã hội hay nội dung vật chất. Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực 6

lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất. Do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho mối quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới sao cho phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời và thay thế. Ví dụ: lực lượng sản xuất ở trình độ thủ công thì nó chỉ đòi hỏi quan hệ sản xuất cá thể, tư hữu, tự cung tự cấp, tự quản lý theo sản xuất nhỏ. Nhưng nếu lực lượng sản xuất ở trình độ cơ khí hóa, tính chất xã hội hóa cao (do dây chuyền công nghệ khép kín, có sự chuyên môn hóa cao) thì nó đòi hỏi tất nhiên phải có hình thức quan hệ sản xuất mang tính xã hội hóa cao thì quá trình sản xuất mới trôi chảy được.

1.2.2 Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất Sự hình thành, biến đổi, phát triển quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó mà phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Có thể thúc đẩy hoạc kìm hãm lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quyết định mục đích, phương hướng của nền sản xuất: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Quy 7

định tới tinh thần, thái độ của người lao động và từ đó gián tiếp tăng cường hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ và tích lũy kinh nghiệm làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển và ngược lại. Mặt khác, quan hê sản xuất thể hiện sự kết hợp giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất. Do vậy sự kết hợp ấy diễn ra như thế nào là điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động diễn ra theo hai trường hợp: Khi có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất sẽ là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất; sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất; sự kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự phù hợp không có nghĩa là đồng nhất tuyệt đối mà chỉ là tương đối, trong đó chứa đựng sự khác biệt. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quy định mục đích, xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; hình thành hệ thống động lực thúc đẩy sản xuất phát triển; đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hơp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất đi đúng hướng, quy mô sản xuất được mở rộng, những thành tựu công nghệ khoa học được áp dụng nhanh chóng, người lao động nhiệt tình, hăng hái sản xuất, lợi ích người lao động được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sự không phù hợp thường xảy ra khi lực lượng sản xuất đã phát triển còn quan hệ sản xuất vẫn lạc hậu, lỗi thời do tính ổn định của nó và tính chất thường xuyên vận động của lực lượng sản xuất. Điều này thường xảy ra trong lịch sử một cách tất yếu do sự vận động của xã hội.

8

Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong những giới hạn, với những điều kiện nhất định. Tóm lại khi quan hệ sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất, C.Mác khẳng định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có…trong đó từ trước tới nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là các hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” ii.

2. Ý nghĩa của phương pháp luận trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam 2.1 Những sai lầm về việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất thời kì trước đổi mới Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng lao động có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động. Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập mối quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên ban xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tùy tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí. Vận dụng quy luật này ở Việt Nam trước hết cần đánh giá những sai lầm, khuyết điểm trong thời kì trước đổi mới. Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta suốt mấy chục năm 9

qua, thực tiễn cho thấy những mặt được cũng như những mặt chưa được và hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế và quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất vào thực tiễn. Xét đặc điểm của nước ta trong thời kì trước đổi mới là Nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, “con trâu đi trước cái cày đi sau”, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc là chủ yếu. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế. Do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển. Sau khi giành được chính quyền, trước yêu cầu xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển, Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chính trị tư tưởng để xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể, lúc đó được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã hội hoá sản xuất cũng như sự thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Song trong thực tế cách làm này đã không mang lại kết quả như mong muốn. Vì nó trái quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cụ thể, Nhà nước ta đã chủ quan duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan bằng cách đốt cháy giai đoạn, thực hiện sự bỏ qua giai đoạn Tư bản chủ nghĩa một cách giản đơn, máy móc. Tách rời một cách siêu hình quan hệ sản xuất ra khỏi lực lượng sản xuất, chủ động đẩy nhanh quá trình, cải tạo và xây dựng quá trình sản xuất vượt quá xa so với trình độ của lực lượng lao động. Do đó mà kìm hãm sự phát triển của lực lượng lao động. Đồng nhất, đơn giản hóa quan hệ sản xuất chỉ còn là quan hệ sở hữu và trong sở hữu chỉ nhấn mạnh đến hình thức sở hữu công cộng, tập thể. Do đó đã để lại một số hậu quả nặng nề: Về mặt quản lí: Sai lầm khi hợp tác hóa, hành chính hóa bộ máy Nhà nước, thực hiện cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp cồng kềnh kém hiệu quả. 10

Về mặt phân phối: Phương thức bình quân chủ nghĩa, cào bằng công sức làm triệt tiêu động lực về sự phát triển lợi ích của người lao động. Về lực lượng sản xuất: Tập trung ưu tiên cho việc phát triển công nghiệp nặng và nhận thức công nghiệp hóa chỉ đơn giản xây dựng một số nhà máy công nghiệp nặng mà thôi. Không chú ý, ít chú ý đến hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng…Chậm trễ trong việc áp dụng khoa học kĩ thuật vào trong sản xuất, đặc biệt là đối với lĩnh vực nông nghiệp. Chưa chú trọng đến việc nâng cao trình độ, đào tạo tay nghề cho người lao động. Chưa nhận thức được người lao động là yếu tố quyết định lực lượng sản xuất.

2.2 Sự vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức và vận dụng đúng đắn sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Từ Đại hội VI, Đảng ta đã có những quan điểm đổi mới. Coi trọng phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ sự đánh giá quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định 11

phải giải phóng sức sản xuất, đồng thời đưa ra chủ trương điều chỉnh lớn cơ cấu sản xuất, bố trí lại cơ cấu đầu tư; xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc bảo đảm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động. Đến Đại hội VII, cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng quan hệ xã hội mới tiếp tục được khẳng định: “ Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng của các hình thức sở hữu. Phát triển kinh tế hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của kinh tế quốc dân…” Đồng thời xác định: Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Có thể thấy chủ trương của Đảng là đúng. Bởi đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng lao động nước ta vừa thấp, vừa không đồng đều nên không thể nóng vội, nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất như trước. Từ Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định “ Mục tiêu của Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại; có cơ cấu kinh tế hợp lý, q...


Similar Free PDFs