Bài thảo luận dân sự lần 3-Nguyễn Hoàng Yến Nhi-2153801015188-QT46B1 PDF

Title Bài thảo luận dân sự lần 3-Nguyễn Hoàng Yến Nhi-2153801015188-QT46B1
Author Yến Nhi Nguyễn Hoàng
Course Luât Dân sự 1
Institution Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 16
File Size 336.6 KB
File Type PDF
Total Downloads 26
Total Views 163

Summary

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí MinhKhoa Luật Quốc tếLớp QT46BBUỔI THẢO LUẬN THỨ BATÀI SẢN VÀQUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢNMôn: Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kếSinh viên thực hiện: Nguyễn Hoàng Yến NhiMSSV: 2153801015188Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 03 năm 2022MỘT SỐ TỪ VIẾ...


Description

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh Khoa Luật Quốc tế Lớp QT46B1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN Môn: Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hoàng Yến Nhi MSSV: 2153801015188

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 03 năm 2022

1

MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT -

BLDS: Bộ luật dân sự TAND: Tòa án nhân dân

-

VKS: Viện kiểm sát

2

I.

Bài tập 1: Khái niệm tài sản? Tóm tắt Quyết định số: 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa. TAND huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa cắn cứ vào Điều 48 điểm b khoản 1 Điều 192, điểm g khoản 1 Điều 127, Điều 218 và Điều 219 và khoản 2 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ án dân sự số 17/2017/QĐST-DS giữa nguyên đơn là ông Phan Hai và ông Phan Quốc Thái. Cuối cùng, tòa án không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Phan Hai và không chấp nhận kháng nghị của VKS nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Đồng thời, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thụ lý số 19/2017/TLST-DS và trả lại đơn khởi kiện

Tóm tắt Bản án số: 39/2018/DS-ST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long. Vợ ông B và bà H bị mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do sửa chữa nhà. Khi họ yêu cầu UBND cấp lại thì được người của UBND cho biết nhà đang có tranh chấp vì giấy tờ nhà là của bà T. Vì vậy họ khởi kiện bà T để lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà T cho rằng do vợ chồng B và H vay tiền và thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến khi trả 120 triệu thì không trả lại, nhưng không có gì để làm chứng. Tòa án quyết định chấp nhận yêu cầu của vợ chồng ông B và bà H, yêu cầu bà T trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng nguyên đơn.

Tóm tắt Bản án số: 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre. Ông Nguyễn Việt Cường khiếu kiện về quy định truy thu thuế theo quyết định số 17/2017/QĐXXST-HC của Cục trưởng Cục thuế tỉnh Bến Tre vì đã áp dụng thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân của ông Cường do bị xử phạt hành chính với lý do sử dụng giao dịch tiền ảo. Bên cạnh đó, ông Cường cũng đã khởi kiện Quyết định số 1002/QĐ-CT của Cục trưởng Cục thuế tỉnh Bến tre vì đã không giải quyết đơn khiếu nại. Cuối cùng, tòa án tuyên bố chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt Cường, hủy quyết định số 714/QĐ-CT và quyết định 1002/QĐ-CT của Cục trưởng Cục thuế tỉnh Bến Tre

3

Tóm tắt Quyết định số: 05/2018/DS-GĐT ngày 10/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Bà Nguyễn Thị H có đâm đơn khởi kiện bà Nguyễn Thị Kim L vì tranh chấp tài sản do ông Nguyễn Thanh T để lại sau khi mất. Ông T và bà C có 3 người con là bà H, ông T1 và ông T2. Năm 1954, ông T tập kết ra bắc. Năm 1964, bà C có chồng khác. Năm 1976, ông T về chung sống với bà C4 nhưng không đăng ký kết hôn, bà C4 có hai con là L và H1. Ông T được quân đội tặng cho căn nhà tại số 63 đường B, ông T có để lại cho bà L giấy ủy quyền về quyền và nghĩa vụ đối với căn nhà trước khi chết. Năm 1995 ông T chết không để lại di chúc, đến năm 1998 bà L làm đơn xin mua nhà thì bà H và ông T1 khiếu nại, trong quá trình giải quyết khiếu nại, cả ba đồng ý cho bà L mua nhà. ngôi nhà. Nhưng bà L cho rằng việc bà H và ông T1 khiếu nại nhiều lần khiến bà không thể mua nhà theo hình thức của ông T mà phải mua nhà theo diện con liệt sĩ nên nhà của bà L và anh trai bà là H1 cũng đã tốn 400 triệu đồng để sửa chữa. Do đó, bà H khởi kiện bà L không chia tài sản theo yêu cầu. Quyết định tòa sơ thẩm là đồng ý với một phần khởi kiện của bà H, yêu cầu bà L giao lại số tiền thừa kế dựa trên giá trị ngôi nhà cho những người có quyền được hưởng thừa kế theo tỷ lệ tòa án quyết định và không chấp nhận quyền sở hữu căn nhà với bà L. Tòa phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo của bà L và không chấp nhân đơn kháng cáo của bà H. Tòa đã quyết định công nhận quyền sỡ hữu căn nhà với bà L và không cần chia tài sản với những người khác. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị. Hội đồng thẩm phán đã quyết định hủy toàn bộ bản án và trả lại cho tòa sơ thẩm xét xử lại vì nhận thấy nhiều sai sót của tòa sơ thẩm lẫn phúc thẩm trong bản án. 1.1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ? - Theo BLDS năm 2015 thì vẫn chưa có định nghĩa về giấy tờ có giá. Ta có thể hiểu nôm na rằng giấy tờ có giá là loại giấy tờ có giá trị trong giao dịch dân sự và tồn -

tại ở nhiều dạng khác nhau Cơ sở pháp lý tại khoản 8, Điều 6, Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận giữa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và điều kiện khác”

-

Tại công văn 141/TANDTC-KHXX liệt kê một số loại giấy tờ có giá như sau:

-

“1. Điều 163 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Theo quy định tại điểm 8 Điều 6 của Luật 4

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 thì giấy tờ có giá là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, thì giấy tờ có giá bao gồm: -

a) Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được quy định tại Điều 1 của Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005;

-

b) Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;

-

c) Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 của Luật quản lý nợ công năm 2009;

-

d) Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật chứng khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010);

-

đ) Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 của Nghị định số 52/2016/NĐ-CP ngày 19/5/2006 của Chính phủ về “Phát hành trái phiếu doanh nghiệp…’’

-

Như vậy thì chỉ những loại giấy tờ được nêu trên mới được pháp luật thừa nhận là giấy tờ có giá.

- Ví dụ về giấy tờ có giá: Cổ phiếu, trái phiếu, … 1.2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng

-

nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá hay không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không? Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận

quyền sở hữu nhà” không phải là giấy tờ có giá. Câu trả lời như sau  Đối với quyết định 06: khi ông Phan Hai khởi kiện yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả lại giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất thì VKS nhân dân không chấp nhận kháng cáo của ông Phan Hai, ở đoạn “…Căn cứ theo khoản 16 Điều 13 Luật đất đai năm 2013… không thể xem là loại giấy tờ có giá.”. Có thể thấy, Tòa án đã xác

5

định “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không phải là giấy tờ có giá.  Đối với Bản án số 39 thì không được đề cập đến. 1.3. Trong thực tiễn, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có câu trả -

lời không? Trong thực tiễn xét xử, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sỡ hữu nhà không phải là tài sản. 

Theo Điều 105, tài sản được quy định như sau:

“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”

-

 Điều 115 có quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.” Vậy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhân sở hữu nhà không phải là tài sản, được thể hiện rõ trong Quyết định số 06 qua kết luận “…Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản…”

-

Đối với Bản án 39, Tòa án chỉ nhận định rằng: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất…” 1.4.

-

Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” từ

khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với luật nước ngoài); Thực tiễn xét xử cho thấy, theo TAND tối cao, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và những loại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản khác không phải là giấy tờ có giá hay thậm chí là tài sản, do vậy không thể áp dụng những biện pháp dân sự đối với những giấy tờ này nên vì thế, hướng giải quyết TAND tối cao chưa thỏa mãn

6

 Đầu tiên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới hình thức vật chất nhất định, thậm chí có hình dạng cụ thể (là tờ giấy), nằm trong khả năng chiếm hữu của con người (có thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý, …) và có giá trị sử dụng (dùng để chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất). Việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể tham gia vào giao dịch trao đổi mua bán không làm mất đi bản chất tài sản của nó. Trên thực tế, có những loại tài sản cũng bị Nhà nước cấm lưu thông như vũ khí, trang thiết bị quân dụng, …  Thứ hai, nếu nhìn từ khái niệm tài sản được định nghĩa tại Điều 105 BLDS 2015, việc nhận định “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không phải là tài sản và hướng giải quyết trong Quyết đinh số 06 là chưa hợp lý. Bởi vì “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” có thế được coi là một vật và thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó. Ở đây, Tòa án chỉ xác định “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không là giấy tờ có giá, từ đó áp dụng Điều 105 BLDS 2015 để kết luận các giấy tờ trên không phải tài sản mà không xem xét các giấy tờ trên như vật.  Thực tiễn xét xử hiện nay không coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một tài sản, tuy nhiên tòa án đưa ra nhận định này là thiếu cơ sở pháp lý và thực tiễn. 1.5. -

Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà có phải là tài sản không? Vì sao?

Theo quy định tại Điều 105 BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà được coi là một vật và thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó, vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới hình thức vật chất nhất định, thậm chí có hình dạng cụ thể, nằm trong khả năng chiếm hữu của con người và có giá trị sử dụng. Nhưng trên thực tế xét xử thì hầu như mọi Tòa án đều xem là vật 1.6. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.

-

Trong Bản án số 39, đoạn lập luận “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này 7

hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.” là thỏa đáng. Bên cạnh đó, dựa vào các lập luận được nêu ở những câu trên, Tòa án có thể cân nhắc về việc xem các giấy tờ này là tài sản. 1.7. Bitcoin là gì? -

Bitcoin là một hệ thống tiền điện tử ngang hàng có thể tách làm các phần sau: 1. Hệ thống tiền 2. Điện tử 3. Ngang hàng  Bitcoin được gọi là 1 hệ thống tiền vì mạng lưới bitcoin có thể làm 2 việc: Sinh ra (phát hành) tiền mới (thông qua khai thác – đào) và giao dịch (nhận và gửi). Do có thể thực hiện đồng thời cả 2 chức năng này nên mạng lưới Bitcoin có thể coi là 1 hệ thống tiền.  Bitcoin không tồn tại hình thức vật lý: Tiền xu, tiền giấy cotton, tiền Polyme mà được lưu trữ hoàn toàn trên hệ thống máy tính. Do vậy nó gọi là là tiền điện tử.  Bitcoin không do bất cứ cá nhân/tổ chức nào làm nhiệm vụ của hệ thống tiền là phát hành và gửi nhận, nó do tất cả những người tham gia vào mạng lưới cộng đồng quyết định. Do vậy nó gọi là ngang hàng, không phân cấp.1

-

1.8. Theo Tòa án, Bitcoin có coi là tài sản theo pháp luật Việt Nam không? Theo Bản án số 22, “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ”, “Tiền ảo không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp”. Căn cứ vào Điều 163 BLDS 2005, Bitcoin không phải là tiền, vì vậy Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam.

-

-

1

Đồng thời, Bitcoin cũng không được liệt kê vào danh sách các giấy tờ có giá. Theo quy định tại Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011, quy định các loại giấy tờ có giá bao gồm: Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, Séc, Công cụ chuyển nhượng khác… Theo khoản 1 Điều 1 Nghị định 80/2016/NĐ-CP, phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây gọi là phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các Bitcoin là gì, tại sao Bitcoin có giá trị lớn như vậy? -Dautu.io

8

-

phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy, Bitcoin không phải là phương tiện được phép thanh toán trên thị trường. Hay nói cách khác, nó không được phép dùng để thay thế tiền mặt hoặc phương tiện thay thế tiền mặt kể trên trong các giao dịch mua bán. Như vậy, có thể thấy Bitcoin không tồn tại dưới bất kỳ bản chất pháp lý nào của tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nói cách khác, nó đã và đang không được coi là một loại tài sản chính thống.2 1.9.

Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống

-

pháp luật mà anh/ chị biết. Trên thế giới hiện nay các quốc gia như Pháp, Nhật, Canada… đã hợp pháp hóa tiền

-

ảo Bitcoin, xem Bitcoin như là một loại tài sản và cho phép giao dịch một cách hợp pháp loại tài sản này. Khi nhắc đến Bitcoin thì có thể kể đến Ukraine. Trong một cuộc bỏ phiếu hầu như nhất trí hoàn toàn, Quốc hội Ukraine đã thông qua một đạo luật hợp pháp hóa và đề ra các quy định đối với tiền ảo. Luật này được khởi động vào năm 2020 và đã được chuyển đến bàn của Tổng thống Volodymyr Zelensky. 1.10. Suy nghĩ của anh/ chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam

-

Quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam khi không coi Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt Nam là hợp lý. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chấp nhận tiền ảo là phương tiện thanh toán sẽ có ảnh hưởng lớn tới chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Sự phát triển lớn mạnh về số lượng cũng như giá trị của tiền mã hóa đang đặt ra rất nhiều thách thức đối với hệ thống tài chính, ngân hàng cũng như việc điều hành chính sách tiền tệ của các Ngân hàng Trung ương như vấn đề kiểm soát các mục tiêu, biến số kinh tế vĩ mô, lạm phát, nguồn cung tiền, lãi suất, tỷ giá, …Vì vậy, mặc dù có một số quốc gia trên thế giới thừa nhận tiền ảo là phương tiện thanh toán thì trong giai đoạn hiện nay, khi mà điều kiện về cơ sở hạ tầng công nghệ, tài chính và nhận thức của người dân chưa cao, để đảm bảo an ninh tiền tệ, ngăn chặn rủi ro xảy ra đối với các hoạt động liên quan đến

2 Tạp chí điện tử luật sư Việt Nam: “Công nhận tiền ảo - Những vấn đề pháp lý cần đặt ra” 9

tiền ảo. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng không chấp nhận loại tiền ảo như một loại tiền tệ.3 -

1.11. Quyền tài sản là gì? Điều 115 BLDS 2015 quy định về quyền tài sản như sau: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”

-

Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, không đòi hỏi phải có sự chuyển giao trong giao dịch dân sự. Đối với quyền tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự phải đáp ứng được hai yêu cầu là trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao cho người khác trong giao dịch dân sự. Quyền tài sản bao gồm quyền đòi nợ, quyền sử dụng tài sản thuê, quyền trị giá bằng tiền, quyền thực hiện hợp đồng, quyền sở hữu trí tuệ. Những quyền tài sản khác gắn với nhân thân thì không được chuyển giao như quyền thừa kế, quyền cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe.

-

Quyền tài sản bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Quyền tài sản có thể được phân chia thành hai loại: quyền đối vật và quyền đối nhân. Quyền đối vật là quyền của chủ thể được tác động trực tiếp vào vật để thỏa mãn nhu cầu của mình như quyền sở hữu, quyền cầm cố, quyền thế chấp, quyền hưởng hoa lợi… Quyền đối nhân là quyền của chủ thể này đối với chủ thể khác. Quyền đối nhân được đáp ứng nếu bên có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ theo yêu cầu của bên có quyền. Ví dụ quyền yêu cầu trả nợ, giao vật…4 1.12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản không? Theo quy định tại Điều 115 BLDS 2015, quyền thuê, quyền mua tài sản trị giá được bằng tiền, đem lại giá trị kinh tế nên là quyền tài sản.

-

1.13. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy TAND tối cao theo hướng quyền thuê, quyền mua tài sản? -

Quyết định của Tòa án cho rằng: “Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) …”. Từ đó, Tòa án nhân dân tối cao thực hiện theo hướng quyền cho thuê, quyền mua là tài sản.

3 Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam-Tiền ảo và một số vấn đề pháp lý đặt ra ở Việt Nam hiện nay 4 Sở tư pháp Bình Thuận-Quyền tài sản

10

1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)? -

-

Điều 181 BLDS 2005 định nghĩa về quyền tài sản như sau: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ.” Theo đó, quyền được xem là quyền tài sản pháp đáp ứng đủ hai điều kiện:

-

Thứ nhất, phải trị giá được bằng tiền, hay nói rộng ra, quyền tài sản phải có giá trị kinh tế nhất định; Thứ 2, phải có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, tức là quyền tài sản phải được

-

phép đưa vào các chu trình trao đổi, lưu thông. Qua hai điều trên, có thể thấy được quyền mua, quyền thuê tài sản đáp ứng được

-

những điều kiện để được xem là quyền tài sản như có giá trị kinh tế nhất định, có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự và chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt nó. Vì vậy, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua là hoàn toàn hợp lý. II.Bài tập 2: Căn cứ xác lập quyền sở hữu

11

Tóm tắt Quyết định số: 111/2013/DS-GĐT ngày 09/9/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Nhà số 2 Hàng Bút là tài sản riêng của cụ Hào. Năm 1954, cụ Hào vào Sài Gòn làm ăn, giao căn nhà cho vợ chồng con trai mình là ông Chính và Châu ở. Năm 1968, ông Chính và bà Châu đi công tác và cho ông Hải thuê lại. Nhưng chị Vân khẳng định ông nội của bà đã thuê của ông Hào từ năm 1954. Lúc thuê có giấy tờ nhưng sau đó bị thất lạc. Khi ông Hải mất,...


Similar Free PDFs