BÀI THẢO LUẬN DÂN SỰ LẦN 5 PDF

Title BÀI THẢO LUẬN DÂN SỰ LẦN 5
Author Nga Lê
Course Luât Dân sự 1
Institution Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 34
File Size 604.1 KB
File Type PDF
Total Downloads 516
Total Views 613

Summary

Khoa Luật Quốc tếLớp Luật Thương mại quốc tế 45ABUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂMQUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾBộ môn : Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kếGiảng viên : ThS. Lê Thị Diễm PhươngNhóm : 04Thành viên 1 Lê Thị Phương Hiền 20538010900462 Trương Bảo Ngân 20538010900743 Nguyễn Minh Hiền 2...


Description

Khoa Luật Quốc tế Lớp Luật Thương mại quốc tế 45A2

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM

QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ Bộ môn : Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế Giảng viên : ThS. Lê Thị Diễm Phương Nhóm : 04 Thành viên 1

Lê Thị Phương Hiền

2053801090046

2

Trương Bảo Ngân

2053801090074

3

Nguyễn Minh Hiền

2053801090047

4

Đào Phương Linh

2053801090059

5

Lê Thị Tuyết Nga

2053801090068

6

Dương Tiểu Ngọc

2053801090075

7

Huỳnh Lê Anh Khoa

2053801090056

8

Hoàng Lê Minh Ngọc

2053801090076

9

Chu Việt Anh

2053801090006

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 4 năm 2021

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS

Bộ luật dân sự

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ  TÓM TẮT QUYẾT ĐỊNH: A. Bản án số 08/2020/DSST: - Tên bản án: Bản án số: 08/2020/DSST Ngày 28 tháng 8 năm 2020 “V/v tranh chấp thừa kế tài sản” -

Nguyên đơn: Ông Trần Văn Hòa Bị đơn: Anh Trần Hoài Nam Chị Trần Thanh Hương

-

Nội dung: Bà Cao Thị Mai và ông Trần Văn Hòa kết hôn với nhau năm 1980. Quá trình hôn nhân, hai ông bà có hai con chung là anh Nam và chị Hương. Ngoài ra, không có con đẻ con nuôi nào khác. Tài sản của ông Hòa, bà Mai gồm: 01 ngôi nhà 3 tầng, sân tường bao quanh và một lán bán hàng xây dựng năm 2006, trên diện tích đất 169,5m2 (trong đó, diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Hòa là 84m2, còn lại 85,5m2 còn lại ông Hòa sử dụng ổn định và không có tranh chấp), địa chỉ thửa đất tại số nhà 257 đường Nguyễn Viết Xuân, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Theo biên bản thẩm định tài sản và định giá tài sản ngày 21/02/2020, tổng tài sản có trị giá là 6.127.665.000đ. Tài sản các đương sự có tranh chấp: tiền cho thuê nhà và lán bán hàng từ tháng 3/2018 đến thời điểm xét xử do ông Hòa đang quản lý; tiền cho thuê lán bán hàng của năm 2017, 2018 do chị Hương quản lý. Đối với đề nghị của anh Nam và chị Hương, yêu cầu xác định diện tích đất 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của gia đình, đề nghị này không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Hội đồng xét xử xem xét các vấn đề để quyết định. Từ các lập luận, tổng giá trị tài sản chung của ông Hòa và bà Mai là 6.151.614.500đ. Tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân và được hình thành từ tài sản của hôn nhân nên được chia đôi cho ông Hòa và bà Mai mỗi người ½ giá trị. Ngày 31/07/2017, bà Mai chết và không để lại di chúc nên di sản của bà Mai được phân chia theo pháp luật. Hiện ông Hòa đã lấy vợ mới, và đăng ký hộ khẩu tạm trú tại huyện Phú Ninh, tỉnh Phú Thọ, nhà đất tranh chấp chủ yếu là cho thuê. Vì các lẽ trên, Tòa án quyết định chia cho ông Hòa số tài sản tổng trị giá 2.220.664.000đ; diện tích đất 38,4 m2 ông Hòa có nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế; chia cho anh Nam số tài sản tổng trị giá 4.207.001.000đ; diện tích đất 47,1 m2 anh Nam có nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế; ông Hòa quản lý giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất; chia cho chị Hương quyền sở hữu số tiền thuê 30.000.000đ; buộc anh Nam thanh toán chênh lệch về tài sản cho ông Hòa số tiền 1.880.412.000đ. B. Án lệ số 16/2017/AL: -

Tên quyết định : Quyết định giám đốc thẩm 573/2013/DS-GĐT về vụ án dân sự tranh chấp thừa kế tài sản

-

Quyết định số

: 573/2013/DS-GĐT

-

Ngày

: 16/12/2013

-

Nguyên đơn

: Ông Phùng Thị H1

-

Bị đơn

: Phùng Văn T

-

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Phùng Thị H3 Nội dung: Bố mẹ nguyên đơn là ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G có tài sản chung là 01 ngôi nhà cấp 4 cùng công trình phụ trên diện tích đất 398m2 ở tại khu L, phường M, thành phố N, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 07-7-1984 ông Phùng Văn N chết (trước khi chết không để lại di chúc), bà Phùng Thị G và anh Phùng Văn T quản lý và sử dụng nhà đất trên. Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia. Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại, không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia. Tiếp đó, bà Phùng Thị G muốn cho con gái là chị Phùng Thị H1 một phần diện tích đất của bà để làm nhà ở nhưng anh Phùng Văn T vẫn giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi đã được Tòa án yêu cầu trả. Chính vì vậy, bà Phùng Thị G không tách đất cho chị Phùng Thị H1 được. Tháng 03/2010 bà Phùng Thị G đã lập di chúc với nội dung: “Để lại cho chị Phùng Thị H1 diện tích đất 90m2 và toàn bộ cây cối lâm lộc trên diện tích đất”. Ngày 19-12-2010 bà Phùng Thị G chết. Tuy nhiên, diện tích 267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G nhưng được xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G. Bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà. Ngoài ra, đối với 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng là phần di sản của ông Phùng

Văn N để lại nay đã hết thời hiệu chia thừa kế, anh Phùng Văn T là một trong các thừa kế không đồng ý chia nên không đủ điều kiện để chia tài sản chung nên phần diện tích đất này ai đang quản lý, sử dụng thì được tiếp tục quản lý, sử dụng.  BÀI TẬP: 1.1 Di sản là gì và có bao gồm nghĩa vụ của người quá cố hay không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. -

Theo điều 612 BLDS 2015, di sản bao gồm "tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung của người khác". Theo khoản 1 điều 615 BLDS 2015 thì “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác".

1.2 Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao? -

Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới phải được xem xét nguyên nhân, mục đích thay thế thì mới được coi là di sản. Cụ thể: + Nguyên nhân thay thế là nguyên nhân khách quan như: bão, lũ, hỏa hoạn hoặc các thảm họa tự nhiên. Ví dụ: Ông A chết để lại di sản thừa kế là ngôi nhà, nhưng do hỏa hoạn làm cho ngôi nhà thiêu cháy rụi hoàn toàn và không còn giá trị sử dụng. Trước thời điểm mở thừa kế ngôi nhà khác được xây dựng thay thế ngôi nhà này. Khi đó ngôi nhà mới này sẽ được coi là di sản thừa kế mà ông A để lại. + Nguyên nhân thay thế là nguyên nhân chủ quan: Nếu vì lý do chủ quan mà di sản thừa kế bị làm hư hỏng hoặc bị bán mà không có sự đồng ý của các đồng thừa kế thì giá trị phần di sản vẫn được coi là di sản thừa kế và người làm thất thoát di sản có trách nhiệm trả lại phần giá trị làm thất thoát để chia thừa kế.1 Hướng giải quyết này chưa được quy định trong văn bản nhưng rất thuyết phục và được áp dụng cả đối với trường hợp di sản được thay thế bằng một khoản tiền như tiền đền bù. Thực tế còn cho thấy, khi di sản bị bán cho người khác,

1 Bùi Thanh Hương (2020), "Tài sản được thay thế mới có được coi là di sản không?",

https://luatminhgia.com.vn/hoi-dap-dan-su/tai-san-duoc-thay-the-moi-co-duoc-coi-la-disan-khong-.aspx, truy cập ngày 25/4/2021.

Tòa án nhân dân tối cao cũng có định hướng tiền từ việc bán (chuyển nhượng) là di sản và trong trường hợp Tòa án đã giao di sản cho một người không được hưởng (và bản án đã có hiệu lực pháp luật), người được giao sở hữu tài sản phải thanh toán giá trị tài sản và giá trị này cũng được chia như di sản. Tương tự như vậy khi Tòa án giao di sản cho một người thừa kế và người thừa kế chuyển nhượng di sản cho người khác nhưng sau đó quyết định giao di sản bị hủy thì di sản được chuyển thành tiền và người nhận tiền phải chia cho những người thừa kế tiền đã nhận.2 1.3 Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. -

-

-

Theo Điều 612 Bộ Luật Dân sự 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.” Như vậy, để được xem là di sản thì trước hết đó phải là tài sản của người chết lúc họ còn sống. Căn cứ theo quy định tại Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.” Như vậy, người sử dụng đất đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất về mặt pháp lý. Theo Điều 168 Luật Đất đai 2013: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận.” Như vậy, về nguyên tắc chỉ khi có Giấy chứng nhận người sử dụng đất mới có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, trong đó bao gồm quyền để lại di sản thừa kế. Hay nói cách khác, để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

1.4 Trong bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bản án có câu trả lời trên? 2 Đỗ Văn Đại (2014), "Một số bất cập về thừa kế trong Bộ luật dân sự năm 2005",

http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207780, truy cập ngày 25/4/2021.

-

Trong bản án số 08, Tòa án coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là di sản. Đoạn trích của bản án cho thấy câu trả lời trên là: “Đối với diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhận định và lập luận cho rằng không được coi là di sản thừa kế, cần tiếp tục tạm giao cho ông Hòa có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...Đây vẫn là tài sản ông Hòa và bà Mai, chỉ có điều là các đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, nếu không xác định là di sản thừa kế và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Phần đề nghị này của đại diện viện kiểm sát không được hội đồng xét xử chấp nhận. Các đề nghị khác đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ, được Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.’’

1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. -

Hướng xử lý của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý. Vì theo Điều 621 BLDS 2015, “di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.” Sau khi bà Mai mất thì phần đất này mới được tiếp tục giao cho ông Hòa thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cho ông Hoà. Vậy nên đây là tài sản riêng của ông Hòa chứ không phải tài sản chung giữa ông Hòa và bà Mai, dẫn đến việc phần đất này không phải di sản của bà Mai.

1.6 Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398 m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao? -

Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N là 133,5m2. Vì trong tổng diện tích 398m2 đất thì đã chuyển nhượng 131m2 đất cho ông Phùng Văn K. Còn lại 267m2 đất là tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G nên được chia ½ (133,5m2) cho mỗi người.

1.7. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao? -

Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K không được coi là di sản vì phần đất tổng 398 m2 là tài sản chung của 2 vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G, nhưng bà G đã chuyển nhượng

-

quyền sử dụng đất lại cho ông Phùng Văn K với diện tích là 131m 2. Việc chuyển nhượng này các con của bà G đều biết nhưng không phản đối và cơ quan nhà nước cũng đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà G với diện tích là 267,4 m2 và cho ông K với diện tích đất là 131m 2. Như vậy, phần đất đã chuyển nhượng là 131 m2 là tài sản của ông K và khi bà G chết thì phần đất này không trở thành di sản của bà vì phần đất đã chuyển nhượng đó không phải là tài sản riêng hay tài sản chung với người khác của bà G, căn cứ theo Điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.” Đoạn văn trong Án lệ thể hiện câu trả lời là: “Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m 2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là 267,4m 2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là không đúng.”

1.8 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K. Hướng giải quyết của Án lệ trên là hợp lý khi quyết định không đưa 131m 2 đất đã bán cho ông K vào phần di sản để chia thừa kế. Vì toà án đã nhận định rằng việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K là để lo cho cuộc sống của bà và các con, đồng thời các con bà của bà đều biết nhưng không ai phản đối gì. Ông K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, có cơ sở để xác nhận các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà chuyển nhượng phần diện tích đất nêu trên cho ông K. Vậy nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà G và ông K là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng không còn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển là ông K. Lúc này, ông K có quyền sở hữu tài sản trong hợp đồng là 131m 2 đất căn

cứ theo Điều 223 về việc xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng như sau: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó.” 1.9 Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia không? Vì sao? -

Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó không được coi là di sản để chia. - Bởi vì: + Xét tài sản chung của vợ chồng bà G và ông N là 398m 2 đất, sau khi ông N mất, không để lại di chúc thì tài sản chung này sẽ được chia đôi là 196m 2 đất theo quy định tại Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Bà G, các con chung của 2 vợ chồng đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 nên đều được chia thừa kế như nhau. + Nếu bà G tự ý bán 131m 2 đất cho ông K, không có sự đồng ý của các con và dùng tiền đó cho cá nhân mình chứ không vì lợi ích của các con thì xem như bà đã bán một phần đất của mình trong khối tài sản chung của hai vợ chồng. Việc mua bán này sẽ không ảnh hưởng đến phần tài sản mà các đồng thừa kế khác được hưởng. 1.10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất trên là bao nhiêu ? Vì sao? -

Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất trên là 1/2 diện tích 398 m2 đất (133,5 m2 đất) vì theo nhận định của Toà, tài sản tuy mang tên của bà Phùng Thị G nhưng vì được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nên phải xác định đây là tài sản chung của ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G (Khoản 1 điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014) . Vì vậy, bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà và khi bà G chết, phần di sản của bà Phùng Thị G chính là 1/2 diện tích đất trên (133,5m2) (Điều 612 BLDS 2015).

1.11 Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43.5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?

-

-

Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 là không thuyết phục vì di sản lúc này của ông N (đã trừ đi phần đất bán cho ông K) là 267m2 :2 = 133,5m2 sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất (căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015) là bà G và 6 người con, nên phần mà bà G nhận được là: 133,5:7 = ~19,07m2. Vậy trên thực tế, phần di sản mà bà G để lại (trừ đi phần diện tích bà cho chị H1) là: 133,5m2 + 19,07m2 - 90m2 = 62,57m2. Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì án lệ này chỉ có nội dung xoay quanh việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.

1.12. Việc Tòa án quyết định “còn lại 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao? -

-

Việc Tòa án quyết định “còn lại 43,5m 2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là không thuyết phục. Vì phần đất 43,5m2 còn lại là phần di sản được chia theo pháp luật, đáng ra phải được chia đều cho 06 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, tức bao gồm cả chị Phùng Thị H1. Việc chị Phùng Thị H1 được bà Phùng Thị G chia di sản theo di chúc không hề ảnh hưởng đến quyền thừa kế của chị, bởi vậy Tòa án quyết định chỉ chia cho 05 người con còn lại là không đảm bảo quyền lợi cho chị Phùng Thị H1. Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16/2017/AL. Vì nội dung của Án lệ số 16 nằm ở đoạn 2 phần Nhận định của Tòa án, là về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 3 Tức là về việc bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất cho ông Phùng Văn K.

3https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/an-le/18697/an-le-so-16-2017-al-ve-cong-nhan-hopdong-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-la-di-san-thua-ke-do-mo...


Similar Free PDFs