Bài thảo luận số 3 - HĐ và BtthnhĐ PDF

Title Bài thảo luận số 3 - HĐ và BtthnhĐ
Author Thư Trần
Course Luât Dân sự 1
Institution Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 20
File Size 540.1 KB
File Type PDF
Total Downloads 185
Total Views 606

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINHKHOA CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆTHỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNGTHIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNGBài thảo luận thứ baLỚP: 122 – AUFNhóm 3Danh sách các sinh viên thực hiện:1. Nguyễn Lê Trâm Anh – 20538010120202. Trần Hồ Trâm Anh – 20538010140143. Trần Dương Thiên Đồng – 205380101...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH KHOA CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG Bài thảo luận thứ ba LỚP: 122 – AUF45 Nhóm 3 Danh sách các sinh viên thực hiện: 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7.

Nguyễn Lê Trâm Anh – 2053801012020 Trần Hồ Trâm Anh – 2053801014014 Trần Dương Thiên Đồng – 2053801014041 Lê Nguyễn Hữu Khoa – 2053801014109 Bùi Nguyễn Nam Phương – 2053801011197 Trần Thị Minh Thư – 2053801015130 Liễu Hồng Thanh – 205301014237

Vấn đề 1: Hợp đồng vi phạm quy định về hình thức Tóm tắt Quyết định số 171/2020/DS-GĐT ngày 24/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh: - Nguyên đơn: ông Phan Quý và bà Lê Thị Bích Thủy. - Bị đơn: ông Lê Văn Dư, ông Lê Sĩ Thắng, ông Khâu Văn Sĩ. - Tranh chấp về: Hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất. - Lý do tranh chấp: Hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất của ông Quý và bà Thủy cho ông Sĩ, ông Dư, ông Thắng là bằng giấy viết tay và chưa được công chứng nhưng ông Sĩ, ông Thắng tự ý chuyển nhượng đất cho ông Dư; ông Dư xây dựng nhà trái phép bị xử phạt hành chính. Hướng giải quyết của Tòa án: - Toà án cấp sơ thẩm: Chỉ công nhận một phần diện tích là không phù hợp với thực tế chuyển nhượng và sử dụng đất giữa các bên tranh chấp - Toà án phúc thẩm: Cho rằng đây là tranh chấp quyền sử dụng đất và việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên không phát sinh hiệu lực pháp luật nên buộc ông Dư phải trả lại toàn bộ diện tích đất, là có sai lầm nghiêm trọng trong việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật, ảnh hưởng quyền lợi của các bên đương sự. Đồng thời, tách việc giải quyết hậu quả pháp lý của các hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Dư với ông Thắng, ông Sĩ để giải quyết bằng vụ án khác, là không có căn cứ, ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Dư, ông Sĩ và ông Thắng. Tóm tắt Quyết định số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018 về “V/v Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: - Nguyên đơn: Võ Sĩ Mến, Phùng Thị Nhiễm; - Bị đơn: Đoàn Cưu, Trần Thị Lắm tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. - Nội dung: Ông Cưu, bà Lắm chuyển nhượng cho ông Mến, bà Nhiễm đất thổ cư 90.000.000 đồng. Sau đó lấy thêm một khu nữa với giá 30.000.000 đồng. Ông Mến, bà Nhiễm giao tiền 110.000.000 đồng. Trong hợp đồng không có công chứng, chứng thực nên vi phạm về hình thức. Tuy nhiên do quá 2 năm, bị đơn không yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, do đó hợp đồng vẫn có hiệu lực. Tại tòa gíam đốc thẩm, Tòa án Nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng quyết định: Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 68/2018/KN-DS, huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 24/2018/DS-PT, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử lại thủ thục thẩm phán.

1

1.1 Đoạn nào trong Quyết định số 171 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được công chứng, chứng thực? Đoạn trong Quyết định số 171 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trước ngày mà BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được công chứng, chứng thực là: “Ngày 03/02/2002, ký chuyển nhượng cho ông Khâu Văn Sĩ 500m 2 đất với giá 500.000.000 đồng; ngày 18/4/2009, ký chuyển nhượng cho ông Lê Sĩ Thắng là 87m 2 đất với giá là 435.000.000 đồng; ngày 18/4/2009, ký chuyển nhượng cho ông Lê Văn Dư 87m2 đất với giá 435.000.000 đồng. Sau khi chuyển nhượng, ông Quý và bà Thủy thông báo cho ông Sĩ, ông Dư, ông Thắng là giao dịch chuyển nhượng bằng giấy viết tay nên bên nhận chuyển nhượng chỉ được phép xây dựng công trình sau khi ký hợp đồng công chứng, đăng bộ và chuyển mục đích sử dụng đất.” 1.2 Đoạn nào trong Quyết định số 171 cho thấy Toà án đã áp dụng Điều 129 BLDS 2015 cho hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực? Đoạn trong Quyết định số 171 cho thấy Tòa án đã áp dụng Điều 129 BLDS năm 2015 cho hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực là: “Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 621/2020/DS-PT ngày 01/7/2020, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Sửa bản án sơ thẩm. Không công nhận việc chuyển quyền sử dụng đất giữa ông Phan Quý, bà Lê Thị Bích Thủy với các ông Khâu Văn Sĩ, Lê Văn Dư, Lê Sĩ Thắng; giữa ông Lê Văn Dư với các ông Khâu Văn Sĩ, Lê Sĩ Thắng là có hiệu lực và không công nhận quyền sử dụng của ông Lê Văn Dư, bà Trần Thị Hiệp đối với 674m² đất, thửa 504, tờ bản đồ số 40, Phường 15, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh…Công nhận 674m² đất nêu trên thuộc quyền sử dụng của ông Phan Quý, Bà Lê Thị Bích Thủy; buộc các ông/bà, trẻ: Lê Văn Dư, Trần Thị Mỹ Hiệp, Khâu Văn Sĩ, Hồ Thị Đồng, Lê Sĩ Thắng, Tạ Thị Thọ, Lê Trần Minh Hằng, Lê Trần Ngọc Huyền, Lê Quốc Thái, Lê Quốc Thịnh và Lê Thu Thảo phải trả lại cho ông Quý, bà Thủy phần đất này.” 1.3 Việc Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên có thuyết phục không? Vì sao? Toà án áp dụng Điều 129 BLDS năm 2015 cho hợp đồng nhượng quyền bất động sản như trên là thuyết phục. Bởi vì: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đất chưa được công chứng, chứng thực: Bên nhượng quyền đã giao tài sản, bên nhận quyền sở hữu đã nhận tài sản, đã xây dựng công trình kiên cố từ trước khi có văn bản này nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 129 BLDS năm 2015. 2

Theo đó, các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết vào năm 2002 và năm 2009 đều vi phạm pháp luật, cụ thể: Người sử dụng đất chưa có quyền sử dụng đất hợp pháp do hợp đồng chưa được công chứng, chứng thực. 1.4 Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực? Đoạn trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực: “Về hình thức của hợp đồng: Đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 01-01-2017, thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS 2015). Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10-8-2009 giữa vợ chồng ông Cưu, bà Lắm với vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm không được công chứng, chứng thực là vi phạm về hình thức.” 1.5 Theo BLDS 2015, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức. Theo BLDS năm 2015, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức là: Tại khoản 2 Điều 132 BLDS thì nếu hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố hợp đồng thì hợp đồng vẫn sẽ có hiệu lực. 1.6 Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy Toà án đã áp dụng quy định về thời hiệu tại Điều 132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực? Tại Quyến định số 93 đoạn mà cho thấy Toà án đã áp dụng quy định về thời hiệu tại Điều 132 BLDS năm 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực là: “Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 10/08/2009 giữa vợ chồng ông Cưu, bà Lắm với vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm không được công chứng, chứng thực là vi phạm về hình thức.” 1.7 Trong quyết định số 93, việc Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực có thuyết phục không? Vì sao? Việc Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực chưa được thuyết phục vì: Xét tại khoản 1 Điều 132 BLDS năm 2015 thì thời hiệu để Toà tuyên bố giao dịch vô hiệu là hai năm và trong suốt hai năm này vợ chồng ông Cưa, bà Lắm không có một 3

yêu cầu nào cho Toà án về việc vô hiệu giao dịch. Chỉ đến khi vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm khởi kiện về không thực hiện nghĩa vụ sang tên quyền sử dụng đất thì vợ chồng ông Cưa, bà Lắm mới phản bác lại yêu cầu của Toà về việc huỷ hợp đồng quyền sử dụng đất của hai bên. Giao dịch dân sự vô hiệu và huỷ hợp đồng là hai sự việc khác nhau, hợp đồng không được công chứng, chứng thực phải là căn cứ để Toà tuyên huỷ hợp đồng theo Điều 423 BLDS năm 2015. Căn cứ tại khoản 2 Điều 132 BLDS năm 2015 thì giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/08/2009 có hiệu lực.

Vấn đề 2: Đơn phương chấm dứt, huỷ bỏ do không thực hiện đúng hợp đồng Tình huống: Ông Minh ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông Cường quyền sử dụng một mảnh đất. Hợp đồng được giao kết hợp pháp và ông Minh đã giao đất cho ông Cường nhưng ông Cường không trả tiền cho ông Minh mặc dù ông Minh đã nhiều lần nhắc nhở. Nay ông Minh yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng để nhận lại đất. Tóm tắt Bản án số 06/2017/KDTM-PT ngày 26/05/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long. Nguyên đơn là công ty Đông Phong có xác lập 1 hợp đồng với bên mua là công ty “Trang trí nội thất Thanh Thảo”. Tuy nhiên quá trình giao kết đã xác định bà Dệt là đại diện của trang trí nội thất là không đúng mà thực chất, bên mua phải là công ty do ông Thành làm đại diện. Bên trong hợp đồng ghi đại diện bên mua là bà Dệt nhưng giao kết lại là ông Liêm là không đúng. Hợp đồng vô hiệu do lỗi các bên ngang nhau. Do vậy Toà án không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, sửa lại án sơ thẩm. 2.1 Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và huỷ bỏ do có vi phạm.  Điểm giống Đều dẫn đến hợp đồng không có hiệu lực. Các bên hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền.

 Điểm khác nhau Tiêu chí Điều kiện chấm dứt hợp đồng 4

Hợp đồng vô hiệu

Hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm

Hợp đồng dân sự vi phạm một Một trong các bên trong hợp trong các điều kiện có hiệu lực của đồng vi phạm các điều khoản có hợp đồng. trong hợp đồng hoặc một bên yêu

cầu hủy hợp đồng. Các trường hợp pháp luật quy định về giao dịch vô hiệu: - Không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015. (Điều 122 BLDS năm 2015)

Các trường hợp chấm dứt hợp đồng

- Do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội. (Điều 123 Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại BLDS năm 2015) trong các trường hợp sau: - Do giả tạo. (Điều 124 BLDS - Do bên kia vi phạm hợp đồng là năm 2015) điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa - Do người chưa thành niên, người thuận. mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ - Do bên kia vi phạm nghiêm trọng hành vi, hạn chế năng lực hành vi nghĩa vụ hợp đồng. dân sự xác lập, thực hiện. (Điều - Do pháp luật quy định. (Điều 423 125 BLDS năm 2015) BLDS năm 2015) - Do bị nhầm lẫn. (Điều 126 BLDS - Do chậm thực hiện nghĩa vụ. năm 2015) (Điều 424 BLDS năm 2015) - Do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. - Do không có khả năng thực hiện. (Điều 127 BLDS năm 2015) (Điều 425 BLDS năm 2015) - Do người xác lập không nhận - Tài sản bị mất, bị hư hỏng. (Điều thức và làm chủ hành vi của mình. 426 BLDS năm 2015) (Điều 128 BLDS năm 2015) - Do không tuân thủ quy định về hình thức. (Điều 129 BLDS năm 2015) - Do có đối tượng không thể thực hiện được. (Điều 408 BLDS năm 2015)

Trách nhiệm thông báo 5

Hợp đồng không đủ điều kiện có Bên hủy hợp đồng phải thông báo hiệu lực thì đương nhiên vô hiệu. cho bên kia về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì

phải bồi thường. (khoản 3 Điều 423 BLDS năm 2015) - Bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường

- Bên yêu cầu hủy hợp đồng nếu Bên có lỗi gây thiệt hại có trách không có lỗi thì không phải bồi nhiệm bồi thường. thường. - Bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường phần hợp đồng đã được thực hiện (nếu có thỏa thuận).

2.2 Theo Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng trên vô hiệu hay bị hủy bỏ? Theo TAND tỉnh Vĩnh Long, Tòa án quyết định hợp đồng vô hiệu: “Vô hiệu hợp đồng mua bán ô tô ngày 26/05/2012 giao kết giữa công ty TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ với ông Trương Văn Liêm.” 2.3 Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long (về hủy bỏ hay vô hiệu hợp đồng). Theo nhóm, hướng giải quyết của TAND tỉnh Vĩnh Long là hợp lý vì: Căn cứ vào bản án cho thấy: - Về chủ thể: hợp đồng ghi bên mua là “Trang trí nội thất Thanh Thảo”, bà Nguyễn Thị Dệt không phải người đại diện cho Trang trí nội thất Thanh Thảo mà Công ty TNHH – SX – TM Thanh Thảo do Trương Hoàng Thành là Giám đốc đại diện. - Trên hợp đồng ghi đại diện bên mua là bà Nguyễn Thị Dệt nhưng khi giao kết hợp đồng lại là ông Trương Văn Liêm là không đúng quy định của pháp luật. - Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu theo Điều 122 BLDS năm 2015 và xử lý vụ việc theo khoản 1, 2 Điều 131 BLDS năm 2015 quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ, dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. 6

Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.”. 2.4 Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng được không? Vì sao? Theo Điều 418 BLDS năm 2015 quy định về thỏa thuận phạt vi phạm: “1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. 2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. 3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Theo Điều 300 Luật Thương mại năm 2005 quy định về phạt vi phạm: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này”. Từ các quy định nêu trên có thể thấy, căn cứ phạt vi phạm đó là: - Hợp đồng phải có hiệu lực; - Có hành vi vi phạm hợp đồng; - Các bên có thỏa thuận áp dụng phạt vi phạm.  Hợp đồng bị vô hiệu thì không áp dụng phạt vi phạm hợp đồng được. Vì hợp đồng vô hiệu là hợp đồng đã chấm dứt hiệu lực cũng như quyền và nghĩa vụ của bên thực hiện nên không thể nào áp dụng phạt vi phạm hợp đồng. 2.5 Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên như thế nào và suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

7

Theo nhóm, hướng giải quyết của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long là hợp lý. Vì hợp đồng bị tuyên vô hiệu thì đương nhiên không ràng buộc trách nhiệm các bên đã giao kết trong hợp đồng, căn cứ theo khoản 1 Điều 131 BLDS năm 2015 “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập”. Vì vậy vấn đề phạt vi phạm của các bên không được xét đến. 2.6 Điểm giống nhau và khác nhau của đơn phương chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng vi phạm.  Giống nhau: - Đều là hành vi pháp lý của một bên trong hợp đồng làm căn cứ chấm dứt hợp đồng khi có những điều kiện do pháp luật quy định hoặc các bên có thỏa thuận. - Bên hủy bỏ, đơn phương chấm dứt phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. - Đều có hậu quả là kết thúc việc thực hiện hợp đồng. - Do một bên thực hiện. - Chỉ không phải bồi thường khi một bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng. Đây cũng là điều kiện để áp dụng việc hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng.  Khác nhau:

Căn cứ pháp lý Trường hợp

8

Huỷ bỏ hợp đồng do có vi phạm.

Đơn phương chấm dứt hợp đồng

Điều 423 BLDS năm 2015

Điều 428 BLDS năm 2015

- Một bên vi phạm hợp đồng là - Một bên vi phạm nghiêm điều kiện hủy bỏ mà các bên đã trọng nghĩa vụ trong hợp đồng thỏa thuận; hoặc các bên có thỏa thuận - Một bên vi phạm nghiêm hoặc pháp luật có quy định. Có nghĩa là, đơn phương chấm dứt trọng nghĩa vụ hợp đồng; hợp đồng có thể dựa trên sự - Các trường hợp pháp luật có thỏa thuận của các bên hoặc quy định, như: Chậm thực hiện theo quy định của pháp luật mà nghĩa vụ, hợp đồng không có không cần xuất phát từ sự vi khả năng thực hiện, tài sản bị phạm hợp đồng. mất, hư hỏng. - Không bắt buộc phải có sự vi Như vậy điều kiện áp dụng để phạm hợp đồng bởi hai bên có hủy bỏ hợp đồng phải có sự vi thể thỏa thuận hoặc do pháp

phạm hợp đồng.

luật quy định.

Điều kiện

Không bắt buộc phải có sự vi Phải có sự vi phạm hợp đồng phạm hợp đồng bởi hai bên có và đây cũng là điều kiện để hủy thể thỏa thuận hoặc do pháp bỏ hợp đồng. luật quy định.

Hậu quả

- Hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên - Hợp đồng chấm dứt kể từ thời không phải thực hiện nghĩa vụ điểm bên kia nhận được thông đã thỏa thuận báo chấm dứt. Các bên không - Hoàn trả cho nhau những gì phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Hợp đồng có hiệu lực cho đã nhận sau khi trừ đi chi phí đến thời điểm thông báo chấm Như vậy, hợp đồng không có dứt. Hợp đồng dừng thực hiện hiệu lực từ thời điểm giao kết, và chấm dứt hiệu lực của các bên không phải thực hiện hợp đồng. nghĩa vụ đã thỏa thuận. Có nghĩa là, hợp đồng coi như - Bên đã thực hiện nghĩa vụ có không tồn tại từ trước. Hợp quyền yêu cầu bên kia thanh đồng sẽ bị tiêu hủy, hủy bỏ toán phần nghĩa vụ đã thực hoàn toàn. Các bên hoàn trả hiện. cho nhau những gì đã nhận.

2.7 Ông Minh có được quyền huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu trên không? Vì sao? Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép huỷ bỏ. Nhìn từ góc độ văn bản BLDS 2015 thì ông Minh có quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng trên. Căn cứ vào khoản 1, 2 và 3 Điều 423 BLDS năm 2015 quy định về hủy bỏ hợp đồng dân sự: “1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau đây: a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận; b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng; c) Trường hợp khác do luật quy định.

9

2. Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. 3. Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.” Ông Minh và ông Cường đã kí với nhau hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng này được giao kết hợp pháp, do vậy hợp đồng này có hiệu lực ràng buộc đối với ông Minh và ông Cường, ông Minh có nghĩa vụ phải giao đất và ông Cường có nghĩa vụ phải trả tiền. Tuy nhiên, trên thực tế ông Minh đã giao đất nhưng ông Cường không trả tiền và ông Minh đã nhiều lần nhắc nhở ông Cường. Do vậy, căn cứ vào Khoản 1,2 và 3 Điều 425 thì ông Minh có quyền yêu cầu huỷ hợp đồng.

Vấn đề 3: Đứng tên giùm mua bất động sản Tóm tắt quyết định số 19/2015/DS-GĐT của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 19/5/2015. Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Tuệ khởi kiện ông Nguyễn Văn Bình về việc tranh chấp đòi lại tài sản. Bà Tuệ sống ở Nhật Bản từ năm 1977 nhưng vẫn thường xuyên về Việt Nam để thăm gia đình nên năm 1992 bà có nhu cầu mua nhà tại Việt Nam. Nhưng vì pháp luật ở Việt Nam không cho phép nên bà nhờ chú ruột của ông Bình mua và đứng tên hợp đồng mua nhà giúp bà. Đến cuối năm 1992, ông Bình tìm và mua được căn nhà ở quận Cầu Giấy Hà Nội với giá 356 chỉ vàng nếu tính luôn tiền lắp điện nước là 36 chỉ vàng. Do ông Bình báo giá chênh lệch 4 chỉ vàng so với giá thật, nên bà Tuệ đã giao 360 chỉ vàng cho ông Bình trả tiền mua nhà mà không lấy giấy biên nhận. Thời điểm mua nhà ông bình không có hộ khẩu ở Hà Nội nên ông đã nhờ bà Vân (em họ của vợ ông) đứng tên trong hợp đồng mua nhà. Những lần về Việt Nam và bà đã tự mua thêm các vật dụng. Sau đó bà Tuệ sang lại Nhật Bản, ông Bình ngỏ ý muốn ở để trông nhà, bà Tuệ đã đồng ý. Tháng 6/2009 bà Tuệ phát hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 25 tháng 05 năm 2001 và trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà là ông Bình và bà Vân và ông Bình đã thừa nhận đã làm kê khai sinh giấy tờ đất mà không báo trước cho bà Tuệ. Nay bà ...


Similar Free PDFs