Bản án số 01/2017/KDTM-ST ngày 28/03/2017 về Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa của TAND tỉnh Phú Thọ PDF

Title Bản án số 01/2017/KDTM-ST ngày 28/03/2017 về Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa của TAND tỉnh Phú Thọ
Author Dun Mai
Course Pháp luật trong kinh tế đối ngoại
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 15
File Size 348.7 KB
File Type PDF
Total Downloads 686
Total Views 883

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA LUẬTBÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦNPHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠIHọc kỳ 1 năm học 2021-Họ và tên Sinh viên: Điêu Phương Mai Ngày sinh: 05/03/ Mã số sinh viên: 1911110250 Lớp tín chỉ: PLU419(GD2-HK1-2021). Khóa: 58Ngày thi: 22/12/ Ca thi: 01 Phòng thi: 1 Số tran...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LUẬT

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Học kỳ 1 năm học 2021-2022 Họ và tên Sinh viên: Điêu Phương Mai

Ngày thi: 22/12/2021

Ngày sinh: 05/03/2001

Ca thi: 01

Mã số sinh viên: 1911110250

Phòng thi: 1

Lớp tín chỉ: PLU419(GD2-HK1-2021).2

Số trang bài làm :07

Khóa: 58 Điểm bài thi Bằng số

Họ tên và chữ ký của giáo viên chấm thi

Bằng chữ GV chấm thi 1:

GV chấm thi 2:

Hà Nội, tháng 12 năm 2021

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Bản án số 01/2017/KDTM-ST ngày 28/03/2017 về Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa của TAND tỉnh Phú Thọ Họ và tên sinh viên: Điêu Phương Mai Lớp tín chỉ: PLU419(GD2-HK1-2021).2 Mã sinh viên: 1911110250 STT: 48 Chữ ký của giảng viên chấm thi

Điểm bài thi Bằng số

Bằng chữ Giảng viên chấm thi 1

Giảng viên chấm thi 2

Hà Nội, tháng 06/2021

MỞ ĐẦU Các hoạt động giao dịch của các doanh nghiệp ngày càng phức tạp và đa dạng. Khi hai bên tiến hành mua bán hàng hóa với nhau thì nảy sinh một hình thức được hai bên thỏa thuận có thể bằng miệng, bằng văn bản, bằng email, fax... mà người ta gọi là hợp đồng mua bán hàng hoá. Việc xảy ra tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các doanh nghiệp là điều khó có thể tránh khỏi ngày nay do hợp đồng ngày càng phong phú và được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật khác nhau. Luật sư, với tư cách là người đại diện của pháp lý, mang đến sự công bằng cho tất cả những đối tượng quan tâm, tham gia đến hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong một vụ kiện tranh chấp kinh doanh và thương mại, luật sư đưa ra những ý kiến, trước hết mang tính chất hòa giải, và sau cùng là đưa ra một kết luận hợp lý dưới sự chấp thuận của cả đôi bên, phù hợp với quan điểm, hệ thống pháp luật Việt Nam. Tỉnh Phú Thọ, nơi giao thương kinh tế trọng điểm, nhu cầu mua bán hàng hóa không ngừng phát triển. Vậy nên, bản án dưới đây được lựa chọn với mong muốn sẽ là một điển hình về vấn đề tranh chấp kinh doanh và thương mại nói chung, mang đến một cái nhìn cụ thể về cách xử lý hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng. Những ý kiến và quan điểm dưới đây mang tính chất cá nhân, tuy đã có những căn cứ pháp luật, song còn nhiều thiếu sót và chưa chặt chẽ nên rất mong nhận được những lời đóng góp từ thầy, cô giáo.

1

TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP Bản án số 01/2017/KDTM-ST ngày 28 tháng 03 năm 2017 về Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa của TAND tỉnh Phú Thọ 1. Chủ thể vụ tranh chấp Nguyên đơn: Công ty cổ phần thương mại C Trụ sở: Tổ 21, khu 11, phường G, thành phố V, tỉnh Phú Thọ Do ông Lê Ngọc C – Giám đốc công ty đại diện. Bị đơn: Công ty cổ phần cơ khí P Trụ sở: Khu 3, phường T, thị xã P, tỉnh Phú Thọ Do ông Vi Tiến H – Phó giám đốc công ty đại diện theo ủy quyền. 2. Tóm tắt nội dung tranh chấp Ngày 02/01/2014 và ngày 02/5/2015, công ty CPTM C và công ty CP Cơ khí P có ký các hợp đồng nguyên tắc mua bán hàng hóa với nhau. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty CPTM C cung cấp đủ các loại hàng hóa sắt thép cho công ty CP Cơ khí P để kinh doanh sản xuất và thỏa thuận thanh toán tiền hàng theo từng đợt. Tuy nhiên, bên công ty CP Cơ khí P đã không thanh toán đầy đủ số tiền theo như thỏa thuận của hai bên, điều này đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng. Tính đến ngày 31/12/2015, sau khi đối chiếu công nợ hai bên cho thấy công ty CP Cơ khí P còn nợ công tý CPTM C tổng số tiền mua bán hàng hóa là 156.672.714đ (Một trăm năm mươi sáu triệu sáu trăm bảy mươi hai nghìn đồng). Đây là khoản nợ cũ từ hợp đồng nguyên tắc mua bá hàng hóa do ông Trần Xuân H – giám đốc cũ công ty CP Cơ khí P đã ký với công ty CPTM C và có bàn giao lại cho công ty sau khi nghỉ việc. Công ty CP Cơ khí P nhất trí yêu cầu thanh toán nợ. Nhưng vì lý do gặp khó khăn tài chính nên công ty CP Cơ khí P đề nghị trả dần nợ làm 2 đợt: - Lần 1: thanh toán 50.000.000đ vào tháng 6/2017; - Lần 2: thanh toán nốt số tiền còn lại vào tháng 12/2017. 2

Công ty CPTM C chỉ đồng ý đề nghị trên với điều kiện thanh toán ngay số tiền 86.672.714 đồng vào lần 1 (06/2017) và trả nốt số còn lại vào lần 2 (12/2017). Nay công ty CPTM C yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc công ty CP Cơ khí P phải có nghĩa vụ thanh toán cho công ty CPTM C số tiền nợ gốc là 156.672.714 đồng cùng 10% lãi suất chậm trả kể từ tháng 01/2016 đến hết thời điểm xét xử sơ thẩm.

3

NỘI DUNG BẢN LUẬN CỨ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc —————–*—————Phú Thọ, ngày … tháng … năm 2017 BẢN LUẬN CỨ Kính thưa Hội đồng xét xử, Tôi là Luật sư Phan Quang Chung – Thuộc đoàn luật sư tỉnh Phú Thọ, giám đốc công ty luật Danh Chính, theo yêu cầu của nguyên đơn dân sự là công ty CPTM C và người đại diện theo ủy quyền là ông ông Lê Ngọc C và được sự đồng ý của Quý Tòa qua giấy: “Chấp nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” số 07/CV -TA ngày …/…/2017, hôm nay, trước phiên Tòa sơ thẩm này, tôi xin được thực hiện việc bảo vệ quyền lợi của thân chủ tôi (công ty CPTM C) với các quan điểm và luận cứ sau: Thứ nhất, về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng (1) chủ thể là công ty CPTM C và công ty CP Cơ khí P là thương nhân được thành lập hợp pháp theo quy định pháp luật tại khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” và có đủ năng lực pháp luật dân sự. (2) hợp đồng được các bên ký kết hoàn toàn tự nguyện (Ngày 02/01/2014 và ngày 02/5/2015, công ty CPTM C có ký các hợp đồng nguyên tắc mua bán hàng hóa với công ty cổ phần cơ khí P. Theo hợp đồng kinh tế đã ký kết, Công ty CPTM C đã bán các loại thép, tôn, kẽm, que hàn... cho công ty CP Cơ khí P để sản xuất các sản phẩm hàng hóa. (3) mục đích và nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội (Công ty Cp Cơ khí P có mua bán các loại hàng hóa sắt thép của công ty CPTM Cđể gia công các loại hàng hóa để kinh doanh theo đơn đặt hàng của khách hàng.)

4

(4) hình thức hợp đồng được thể hiện dưới dạng văn bản phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 24 Luật Thương mại 2005: “Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể” Từ đó, hợp đồng được ký kết giữa công ty CPTM C và công ty CP Cơ khí P đủ điều kiện có hiệu lực của pháp luật theo khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015: “Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.”và chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật Thương Mại 2005: “Phạm vi điều chỉnh: Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” Thứ hai, về yêu cầu đòi số tiền nợ gốc là 156.672.714 đồng Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Thương Mại 2005: “Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận”. Có thể thấy, việc công ty CP Cơ khí P không chịu thanh toán tiền hàng theo thỏa thuận đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Vì vậy nên yêu cầu đòi số tiền nợ gốc là 156.672.714 đồng của công ty CPTM C là hợp lý và đúng quy định của pháp luật. Thứ ba, về yêu cầu đòi số tiền nợ lãi là 19.496.666 đồng. Hợp đồng giữa hai bên ký kết không có thỏa thuận cụ thể về lãi suất khi chậm thanh toán. Theo Điều 306 Luật Thương Mại 2005: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Do đó, việc công ty CPTM C đòi số tiền lãi chậm trả 10% là hợp lý. Vì vậy nên yêu cầu đòi số tiền nợ lãi là 19.496.666 đồng của công ty CPTM C là có cơ sở.

5

Từ tình hình thực tế, qua 3 nhận định trên, với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là Công ty CPTM C, tôi kính đề xuất Hội Đồng xét xử sơ thẩm xem xét áp dụng các điều sau đây: 1. Đề nghị áp dụng Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 và khoản 1 Điều 1 Luật Thương Mại 2005 quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm của bị đơn là công ty CP Cơ khí P 2. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 50 Luật Thương Mại 2005 quy định trách nghiệm thanh toán nợ gốc đối của công ty CP Cơ khí P đối với công ty CPTM C. 3. Đề nghị áp dụng Điều 306 Luật Thương Mại 2005 để công nhận số tiền lãi chậm trả mà bên công ty CP Cơ khí P cần thanh toán với công ty CPTM C. Trên cơ sở các luận cứ viện dẫn trên, với tư cách luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn, chúng tôi kiến nghị Hội Đồng xét xử chấp nhận yêu cầu phía nguyên đơn để tuyên xác nhận số tiền mà bên bị đơn có nghĩa vụ phải trả đầy đủ số nợ gốc và lãi chậm thanh toán. Bởi vậy, với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là công ty CPTM C yêu cầu số tiền mà bị đơn phải thanh toán tổng cộng là: 176.169.380 đồng (Một trăm bảy mươi sáu triệu một trăm sáu mươi chín nghìn ba trăm tám mưới đồng). Bao gồm: Tiền nợ gốc 156.672.714 đồng; Tiền lãi suất chậm trả 156.672.714 x 0,83%/tháng x 14 tháng 28 ngày = 19.496.666 đồng. Vậy, kính mong được Quý tòa nghiên cứu chấp nhận các luận cứ và các kiến nghị cụ thể hợp tình, hợp lý và thỏa đáng nói trên, để cho thân chủ tôi được thanh toán đầy đủ số tiền và đưa ra được một bản án khách quan và chính xác, đúng pháp luật. Xin cám ơn Hội đồng xét xử và quý vị đã chú ý lắng nghe. Trân trọng kính kiến nghị và kính cảm ơn Hội Đồng xét xử.

6

KẾT LUẬN Kinh doanh và thương mại từ lâu đã là một vấn đề vô cùng phức tạp trong nền kinh tế xã hội nói chung, pháp luật Việt Nam nói chung. Một vụ án để có được những kết quả công bằng cho tất cả những bên liên quan thì vai trò của người luật sư, đại diện pháp luật là vô cùng quan trọng. Không chỉ cần nắm thật chắc kiến thức về pháp luật mà còn phải áp dụng linh hoạt vào những lý lẽ logic. Vụ án về hợp đồng mua bán hàng hóa ở tỉnh Phú Thọ rất điển hình, là một ví dụ tiêu biểu cho pháp luật kinh doanh và thương mại ở nước ta, là tài liệu tham khaaor chuẩn mực cho những trường hợp tương tự. Nghiên cứu và tìm hiểu bản án trên đã giúp bản thân sinh viên hiểu rõ hơn về tính minh bạch xác đáng của hệ thống pháp luật Việt Nam, bổ sung thêm những kiến thức pháp lý và kinh doanh. Bài tiểu luận trên là sự nghiên cứu, tìm hiểu và những quan điểm cá nhân, tuy đã có sự tham khảo và học hỏi từ tài liệu pháp luật nhưng vẫn còn rất nhiều lý lẽ lập luận chưa thực sự chặt chẽ, cần được học hỏi và chỉ dạy thêm. Vậy nên, trước hết, em rất mong được cô- giảng viên Nguyễn Thị Lan giành thời gian đọc và chỉ ra những thiếu sót trong bài làm của em. Sau đó, em xin tiếp nhận và rút kinh nghiệm một cách tích cực nhất, xứng đáng với tâm sức của cô. Em xin trân thành cảm ơn cô!

7

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (chủ biên), Giáo trình Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại NXB Bách Khoa, 2012. 2. Luật Thương mại Việt Nam năm 2005. 3. Bộ luật dân sự Việt Nam 2015. 4. Bản án số số 01/2017/KDTM-ST ngày 28 tháng 03 năm 2017 về Tranh chấp hợp đồng mua

bán

hàng

hóa

của

TAND

tỉnh

Phú

Thọ

http://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta983t1cvn/chi-tiet-ban-an?fbclid=IwAR3LlLL9pamaKnUPCliIyqM2vFnTAdQVAye4mIAsx3kPSjfkM3sg-IuKYQ

8

PHỤ LỤC Bản án số 01/2017/KDTM – ST Ngày 28 - 3 – 2017 “Về việc tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THỊ XÃ PHÚ THỌ TỈNH PHÚ THỌ

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc -------------------------

---------------Bản án số 01/2017/KDTM - ST Ngày 28 - 3 - 2017 “Về việc tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa

NHÂN DANH NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ---------------------------------

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ THỌ, TỈNH PHÚ THỌ

Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: - Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Ngọc Thuý - Các Hội thẩm nhân dân 1. Ông Trần Anh Tuấn 2. Bà Nguyễn Thị Tình Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Hà Thanh Loan – Cán bộ Toà án nhân dân thị xã Phú Thọ Hôm nay, ngày 28 tháng 3 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 01/2017/TLST – KDTM ngày 12/01/2017 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2017/QĐXX - ST ngày 10/3/2017 giữa các đương sự: Nguyên đơn: Công ty cổ phần thương mại C Trụ sở: Tổ 21, khu 11, phường G, thành phố V, tỉnh Phú Thọ Do ông Lê Ngọc C – giám đốc công ty đại diện (Có mặt tại phiên tòa) Bị đơn: Công ty cổ phần cơ khí P Trụ sở: Khu 3, phường T, thị xã P, tỉnh Phú Thọ Do ông Vi Tiến H – Phó giám đốc công ty đại diện theo ủy quyền. (Có mặt tại phiên tòa) NỘI DUNG VỤ ÁN : Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, ông Lê Ngọc C – Giám đốc công ty cổ phần thương mại C trình bày: 9

Ngày 02/01/2014 và ngày 02/5/2015, công ty CPTM C có ký các hợp đồng nguyên tắc mua bán hàng hóa với công ty cổ phần cơ khí P. Theo hợp đồng kinh tế đã ký kết, Công ty CPTM C đã bán các loại thép, tôn, kẽm, que hàn... cho công ty CP Cơ khí P để sản xuất các sản phẩm hàng hóa. Theo biên bản đối chiếu công nợ giữa hai bên, tính đến thời điểm 31/12/2015, công ty cổ phần cơ khí P còn nợ công ty CPTM C tổng số tiền mua bán hàng hóa theo hợp đồng là 156.672.714đ (Một trăm năm mươi sáu triệu sáu trăm bảy mươi hai nghìn đồng). Kể từ năm 2016 đến nay mặc dù đã đôn đốc nhiều lần nhưng công ty cổ phần cơ khí P đã vi phạm các cam kết trong hợp đồng, không hợp tác và thanh toán cho công ty C số nợ trên. Nay công ty CPTM C yêu cầu công ty cổ phần cơ khí P phải thanh toán toàn bộ khoản nợ trên. Ngoài ra, công ty CPTM C còn yêu cầu công ty CP Cơ khí P phải trả tiền lãi đối với số tiền nợ chậm thanh toán do vi phạm hợp đồng với lãi suất là 10%/ năm kể từ tháng 01/2016 đến hết thời điểm xét xử sơ thẩm. Tại các bản tự khai tại Tòa án, ông Vi Tiến H – Phó giám đốc công ty Cp Cơ khí P đại diện theo ủy quyền trình bày: Kể từ năm 2014 đến nay, công ty Cp Cơ khí P có mua bán các loại hàng hóa sắt thép của công ty CPTM C để gia công các loại hàng hóa để kinh doanh theo đơn đặt hàng của khách hàng. Trong quá trình mua bán hai bên có thanh toán tiền hàng cho nhau theo từng đợt nhập hàng. Theo biên bản đối chiếu công nợ đã đối chiếu giữa hai bên, tính đến ngày 31/12/2015, công ty cổ phần cơ khí P còn nợ công ty TMCP C số tiền 156.672.714đ là đúng. Số tiền nợ này là khoản nợ cũ từ của hợp đồng nguyên tắc mua bán hàng hóa được ký kết từ năm 2014 do giám đốc cũ trước đây là ông Trần Xuân H ký kết. Khi giám đốc cũ bàn giao có bàn giao khoản nợ này. Nay công ty TMCP C yêu cầu thanh toán nợ, quan điểm của công ty CP cơ khí P là nhất trí trả nợ cho công ty CPTM C. Tuy nhiên, điều kiện công ty CP cơ khí P đang gặp những khó khăn về tài chính. Vì vậy công ty xin được trả nợ làm 02 lần: - Lần 1: thanh toán 50.000.000đ vào tháng 6/2017; - Lần 2: thanh toán nốt số tiền còn lại vào tháng 12/2017. Tòa án đã tiến hành hòa giải giữa hai bên nhưng không thành. Công ty CPTM C chỉ đồng ý cho công ty Cp cơ khí P trả tiền làm hai lần nếu công ty CP Cơ khí P thanh toán ngay số tiền 86.672.714đ. Số tiền còn lại thanh toán nốt vào tháng 12/2017. Tại phiên tòa hôm nay, ông Lê Ngọc C – đại diện cho công ty CPTM C vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị công ty CP Cơ khí P phải trả cho công ty CPTM C số tiền nợ gốc là 156.672.714đ và tiền lãi do vi phạm hợp đồng kể từ 01/01/2016 cho đến hết tháng 3/2017 với lãi suất theo quy định pháp luật kể từ tháng 01/2016 đến ngày xét xử sơ thẩm. Ông Vi Tiến H nhất trí trả nợ nhưng ông đề nghị chỉ trả tiền gốc và xin được trả 10

dần, còn đối với phần lãi mà ông Lê Ngọc C đề nghị, nếu hợp đồng giữa hai bên đã ký kết hoặc luật có quy định phải thanh toán thì công ty cũng nhất trí trả. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định: Xét hợp đồng nguyên tắc mua bán hàng hóa được ký kết giữa công ty CPTM C và công ty Cp cơ khí P đúng về nội dung, hình thức, là thực tế và là sự tự nguyện thoả thuận. Việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa công ty CPTM C và công ty Cp cơ khí P thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân. Trong hợp đồng nguyên tắc mua bán hàng hóa đã thể hiện hai công ty đều giao dịch nhằm mục đích hoạt động kinh doanh nên vụ án thuộc vụ án kinh doanh thương mại, nội dung tranh chấp hợp đồng nguyên tắc mua bán hàng hóa do Luật dân sự điều chỉnh. [2] Về nội dung hợp đồng: Hai bên đã thực hiện việc mua bán các loại hàng hóa như đã ký kết trong hợp đồng, thể hiện ở các hóa đơn mua bán hàng hóa. Ngày 31/12/2015, hai bên công ty có thực hiện việc đối chiếu công nợ và xác định công nợ đến thời điểm 31/12/2015, công ty CP cơ khí P còn nợ công ty CPTM C số tiền là 156.672.714đ. Sau khi công ty CP Cơ khí P đã nhận được hàng, đã nhận được hóa đơn mua bán hàng hóa nhưng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán là vi phạm hợp đồng mà hai bên đã thoả thuận. Tại phiên tòa, ông Vi Tiến H xác định sau khi bàn giao công ty giữa giám đốc cũ và giám đốc mới, ban đầu hai bên đối chiếu công nợ xác định công ty Cơ khí P nợ công ty CPTM C 211.888.587đ. Nhưng trong quá trình kiểm tra đối chiếu thì thực tế khoản nợ chỉ còn lại là 156.672.714đ. Ông Vi Tiến H khẳng định khoản nợ trên là có thật, hai bên đã thực hiện việc đối chiếu và chốt công nợ. Tuy nhiên ông Vi Tiến H đề nghị cho công ty Cp cơ khí P thanh toán nợ làm hai lần như trên là không có căn cứ pháp luật bởi tại điều 3 về điều khoản thanh toán trong hợp đồng nguyên tắc mua bán hàng hóa mà hai bên đã ký kết thì “ việc thanh toán được thực hiện trước hoặc sau khi giao hàng xong. Bên A có biên bản giao nhận hàng và hóa đơn VAT theo quy định nhưng cũng không quá 10 ngày”. Do trong quá trình thực hiện hợp đồng, công ty CP Cơ khí P đã vi phạm các cam kết, thoả thuận trong hợp đồng mà hai bên đã ký kết, vì vậy buộc công ty CP Cơ khí P phải trả cho công ty CPTM C số tiền nợ là 156.672.714đ. [3] Về lãi suất: Trong hợp đồng nguyên tắc mua bán hàng hóa mà hai bên đã ký kết mặc dù không thỏa thuận về lãi suất khi chậm thanh toán theo hợp đồng, tuy nhiên tại bản tự khai và tại phiên tòa Công ty CPTM C đều đề nghị phải tính lãi suất tiền nợ phát sinh kể từ ngày 01/01/2016. Theo quy định tại điều 438 của Bộ luật dân sự năm 2005, trường hợp bên mua chậm trả tiền sẽ phải trả lãi đối với số tiền chậm trả. Vì vậy cần phải tính lãi suất khi chậm nghĩa vụ thanh toán tiền theo hợp đồng là 11

phù hợp. Do quy định về lãi suất chậm trả tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự 2015 (hiện tại là 10% năm) khác với khoản 2 điều 438 Bộ luật dân sự năm 2005 (Lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố theo quyết định số 2868/QĐ – NHNN ngày 29/11/2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là 9%/năm = 0,75%/ tháng). Căn cứ khoản 1 điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015, giao dịch do các bên xác lập trước ngày Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực đang được thực hiện mà có nội dung về lãi suất khác với quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005.Vì vậy cần áp dụng nội dung về lãi suất theo khoản 2 điều 438, khoản 2 điều 305 Bộ luật dân sự năm 2005. Số tiền lãi công ty cổ phần cơ khí P phải trả là: 156.672.714đ x 0,75%/tháng x 14 tháng 28 ngày = 17.547.000đ (Mười bẩy triệu năm trăm bốn mươi bẩy nghìn đồng) [4] Về án phí: Công ty CP Cơ khí P phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên: QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 1 điều 30, điểm b khoản 1 điều 35; khoản 1 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 428, 438, khoản 2 điều 305 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 357, điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Điểm b mục 1.3 danh mục án phí; khoản 1, 2 điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14...


Similar Free PDFs