Mỹ-Học Nhóm-6 K47K - Lecture notes 8 PDF

Title Mỹ-Học Nhóm-6 K47K - Lecture notes 8
Author Hiên K47K Ngô Mạnh
Course Nhập môn khoa học xã hội-nhân văn
Institution Đại học Sư phạm Hà Nội
Pages 21
File Size 389.1 KB
File Type PDF
Total Downloads 215
Total Views 264

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2KHOA NGỮ VĂNHọc phần: Mỹ Học Đại CươngChủ Đề 10: Cái bi kịch trong hình tượng nhânvật chị Dậu trong Tắt Đèn của Ngô Tất TốThực hiện: Nhóm 6 Đinh Thị Giang (NT), Ngô Thị HàNguyễn Thu Hoài, Cao Thị HoàiNgô Mạnh HiênMỤC LỤCA. Mở đầu...........................................


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN

Học phần: Mỹ Học Đại Cương

Chủ Đề 10: Cái bi kịch trong hình tượng nhân vật chị Dậu trong Tắt Đèn của Ngô Tất Tố

Thực hiện: Nhóm 6 Đinh Thị Giang (NT), Ngô Thị Hà Nguyễn Thu Hoài, Cao Thị Hoài Ngô Mạnh Hiên

MỤC LỤC A. Mở đầu ……………………………………………………………………………………………….

B. Nội dung Chương 1: Những vấn đề chung 1.1: Bi kịch và nhân vật bi kịch..............................................................................................1 1.2: Tác giả Ngô Tất Tố..........................................................................................................2 1.2.1: Cuộc đời.......................................................................................................................2 1.2.1: Sự nghiệp sáng tác........................................................................................................3 1.3: Tác phẩm Tắt Đèn............................................................................................................5 1.3.1: Bối cảnh lịch sử............................................................................................................5 1.3.2: Tóm tắt tác phẩm Tắt Đèn............................................................................................8 1.3.3: Giá trị hiện thực và Giá trị nhân đạo...........................................................................9 1.3.4: Nghệ thuật....................................................................................................................9 1.3.5: Mở rộng......................................................................................................................10 Chương 2: Bi kịch của chị Dậu trong tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố. 2.1: Vẻ đẹp của Dậu........................................................................................................10

chị

2.2: Những bi kịch Dậu.............................................................................................11

của

chị

2.3: Mở rộng.........................................................................................................................14 Chương 3: Liên hệ thực tế và Bài học .............................................................................15

C. Kết luận ...............................................................................................................................................

A. Mở đầu Con người chúng ta thường: mất đi mới biết trân trọng, đi tìm cái cao sang mà bỏ lỡ những vẻ đẹp giản dị mà đáng quý... Và đôi khi, chìa khoá mà bạn đang tìm, lời giải mà bạn muốn ở ngay chỗ bạn. Không lí gì, tự nhiên ông bà ta hay các thế hệ đi trước lại nói với chúng ta của ngày nay rằng: “Bọn trẻ bây giờ sướng hơn chúng ta bội phần!” hay như “ Ngày trước ông bà lo không có cái mà ăn, quần áo mà mặc thì giờ chúng mày lại lo không biết hôm nay ăn món gì cho ngon, mặc gì cho đẹp”. Bi kịch từ hình tượng nhân vật chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố sẽ là lời giải đáp, chìa khoá cho vấn đề trên. Tác phẩm “Tắt đèn” được viết trước cách mạng tháng tám trong xã hội phong kiến đương thời và thời kì Pháp thuộc. Hoàn cảnh đó khiến nhân dân phải chịu “một cổ hai tròng”. Song, chính xã hội bất công, tàn ác ấy đã làm sáng nên những vẻ đẹp đáng quý của người nông dân thời xưa. Và chị Dậu là một nhân vật điển hình như vậy. Dù bị bi kịch cuộc đời xô đẩy vào bế tắc chị vẫn vẹn nguyên những phẩm chất quý giá của người nông dân. Qua đó giúp chúng ta thêm yêu, thêm thương, thêm đồng cảm, trân trọng những người phụ nữ xưa nói riêng và người nông dân nói chung. Điều đó, thôi thúc chúng ta ở hiện tại hãy sống và trở thành những con người tử tế. Hãy trân trọng mọi thứ xung quanh chúng ta bởi tất cả những gì chúng ta có được ngày hôm nay là cả bao mồ hôi nước mắt của biết bao người đi trước, là công lao của biết bao anh hùng đã đổ máu đổi lấy độc lập, tự do, hoà bình. Để đạt được mục đích trên chúng em xin được làm sáng tỏ qua chủ đề “Phân tích cái bi kịch từ hình tượng nhân vật chị Dậu”. Cụ thể, chủ đề đó sẽ được phân tích, chứng minh qua các phần: Chương 1: Những vấn đề chung 1.1. 1.2.

Những nét cơ bản về cái bi kịch. Tác giả Ngô Tất Tố.

1.3.

Tác phẩm “Tắt đèn”

Chương 2: Bi kịch của chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố 2.1 2.2 2.3

Vẻ đẹp của chị Dậu Tác giả Ngô Tất Tố. Tác phẩm “Tắt đèn”

Chương 3: Liên hệ thực tế, bài học.

B. Nội dung Chương 1 : Những vấn đề chung. 1.1. Những nét chung về bi kịch *Khái niệm về cái bi kịch. Cái bi kịch gắn liền với quan niệm về một cuộc đấu tranh căng thẳng và đầy gian nguy vì những mục đích chân chính và dẫn tới kết quả là con người tiến hành cuộc đấu tranh đó phải chết hoặc thất bại. Cái bi kịch thích ứng với những mâu thuẫn và xung đột gay gắt, quằn quại trong đời sống xã hội và cá nhân, và một phần lớn, trong những hoàn cảnh nhất định, tỏ ra không giải quyết được. Theo Ph. Ăngghen, cái bi kịch biểu hiện sự mâu thuẫn “giữa yêu cầu tất yếu về mặt lịch sử và tình trạng không thể thực hiện nó đượctrong thực tiễn”. *Phân loại bi kịch: 2 loại - Bi kịch lịch sử: Những câu chuyện oai hùng về các nhân vật giữ các vị trí quan trọng đối với cộng đồng, dân tộc, đất nước có lí tưởng, tài năng, đức độ nhưng vì nhược điểm nào đó mà phải chết, thất bại khi sự nghiệp còn dở dang. VD: An Dương Vương, Hàm Nghi… - Bi kịch của con người đời thường: Câu chuyện bi thương, bất hạnh về những con người bình thường mà tốt bụng, tử tế trong cuộc sống: VD: Chị Dậu, Chí Phèo, Lão Hạc… *Nhân vật bi kịch. 1. Bi kịch của những nhân vật chết trong đêm trường đen tối. Đây là dạng thức bi kịch lịch sử điển hình - bi kịch của cái mới, cái tiến bộ, cái cách mạng nhưng còn ở trong thế yếu, ở một hoàn cảnh đã nảy sinh nhu cầu tất yếu thay đổi lịch sử hiện hành nhưng điều kiện để thực hiện nó lại chưa chín muồi. Nhân vật bi kịch trong đây không đại diện cho cá nhân, cho một bộ phận người nhỏ bé, mà đại diện cho giai cấp, dân tộc, cộng đồng, cho những trào lưu có ý nghĩa xã hội rộng lớn. Do vậy, cái chết của họ là cái chết vĩ đại, có tác dụng thúc đẩy mọi người lao vào cuộc đấu tranh cho lẽ phải, cho sự công bằng và tiến bộ xã hội.

2. Bi kịch của các nhân vật chết trước bình minh. Đây cũng là một dạng thức bi kịch lịch sử - bi kịch của cái mới, cái tiến bộ, cách mạng đã ở thể thắng toàn cục, nhưng một bộ phận nào đó lâm vào hoàn cảnh lâm nguy và người anh hùng bị tiêu vong. Sự hi sinh của nhân vật bi kịch trong đây là sự hi sinh ở một thời điểm quan trọng – trước ngưỡng cửa chiến thắng. Sự hi sinh đó có ý nghĩa làm bật tung cánh cửa, đưa mọi người tràn ra ánh sáng từ bóng tối. Bi kịch này có khi còn được gọi là bi hùng kịch. 3. Bi kịch của cái cũ những chưa cũ hẳn. Điều kiện của bi kịch này là cái cũ chưa trở thành cái phản động mà ít nhiều vẫn còn mang sứ mệnh lịch sử. Bản thân cái cũ còn tin vào tính chất hợp lí của nó. Bi kịch này chủ yếu không phải do xung đột giữa cái cũ và cái mới sinh ra, mà là bi kịch của những người chưa nhận ra được tính tất yếu của quá trình đang chết dần của cái cũ nên vẫn ra sức bảo vệ nó nên không tránh khỏi sự thất bại, tiêu vong. 4. Bi kịch của sự nhầm lẫn, kém hiểu biết hoặc ngu dốt . Về cơ bản, nhân vật bi kịch trong đây đều là những người tốt, có nhân cách hoặc có động cơ sống tử tế. Bi kịch của sự nhầm lẫn được nêu ra như một bài học xương máu nhắc nhở con người. Trong đời sống, sự kém hiểu biết, ngu dốt của con người cũng có thể gây ra những bi kịch. Bi kịch này không do lực lượng xã hội nào gây nên, mà thường do cá nhân tự chuốc lấy, mắc phải do chưa biết được giới hạn của mình. 5. Bi kịch của những khát vọng của con người trong những điều kiện ngặt nghèo không thể thực hiện được. Dạng bi kịch này thể hiện những đau khổ, dằn vặt của cá nhân song lại chạm đến lẽ sống, tình yêu, bổn phận của con người nên nó thường day dứt lòng người. Nhân vật bi kịch trong đây không phải là người anh hùng xuất chúng song là những người có phẩm chất, đáng yêu, đáng trọng. Do vậy, bi kịch của họ có ý nghĩa tố cáo gay gắt những thế lực xấu xa và bản chất đen tối của xã hội.  Có thể nói, ở các trạng huống khác nhau, các dạng thức của cái bi kịch rất đa dạng, thể hiện sự phức tạp của chính cuộc đời. Song dù ở trạng thái nào thì tình huống của cái bi kịch cũng thuộc về những vấn đề có ý nghĩa xã hội rộng lớn, ảnh hưởng đến lẽ sống, tình yêu và thân phận của con người. Xung đột giữa cái cách mạng và cái phản động trong đây phải được xem là trung tâm của cái bi kịch thời đại. 1.2. Tác giả Ngô Tất Tố. 1.2.1. Cuộc đời. Nhà văn hiện thực phê phán Ngô Tất Tố sinh năm 1893 sinh ra trong một nhà nho nghèo làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ,phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Giang. Ngô Tất Tố được coi là nhà văn hàng đầu của trào lưu hiện thực phê phán ở Việt Nam trước 1945 với các tác phẩm tiêu biểu như "Tắt đèn", "Việc làng", "Tập án cái đình". Ông nội Ngô Tất Tố bảy lần thi hương,nhưng chỉ đỗ tú tài.Còn bố cũng sáu lần lều chõng nhưng cũng không đỗ đạt gì.Còn bản thân ông, lúc ông 22 tuổi đã đỗ đầu trong kì thi hai hạch ở địa phương nên được người ta gọi là ông Đầu xứ Tố.Sau đó, ông cùng ông Đỗ Ngọc Toại theo khóa thi Ất Mão, khoa

cuối cùng của của Nho học tại trường thi Hà Nam, nhưng đều bị hỏng. Ngô Tất Tố xuất thân từ trong một nhà nho nghèo nhưng cả ông nội và bố đều là những người có học. Gia đình ông cũng chỉ là gia đình nông dân nghèo, còn phải chịu thêm ruộng làng để cày cấy và trả nợ lãi khủng khiếp của bọn quan lại. Chính những hiện thực đó nên những tác phẩm ông viết chủ yếu hướng về những người nông dân lao động ,có sức phản kháng mạnh mẽ. Có lẽ thời xưa nam nhi phải “năm thê bảy thiếp” mới được gọi là giàu có và đó là điều hiển nhiên của mỗi gia đình. Nhưng đối với ông, thì lại cảm thấy không thích về chuyện này, dường như duyên số đã đẩy ông vào hai cô vợ xinh đẹp, mà hai người vợ lại là hai chị em ruột. Ngô Tất Tố xuất thân nho học nhưng đã sớm bỏ bút lông, cầm bút sắt, hăng hái bước vào làng văn cương Việt Nam, ông tự tạo cho mình một ít riêng biệt không giống ai. Ông bắt đầu con đường hoạt động văn học với những bản dịch chữ Hán “Cẩm hương đình” năm 1923. Cho đến năm 1926, Tản Đà mở “An Nam tạp chí” và Ngô Tất Tố được mời ra Hà Nội công tác thế là ông đã làm nghề báo từ đó. Chính sự tình cờ đó mà ông có cơ hội viết lên những áng văn của riêng mình phản ánh và đi sâu vào từng ngóc ngách của xã hội thối tha, đểu trá, người nông dân sống trong thời đại khổ cực, những lối sống phè phỡn của bọn thống trị. Sau khi ra được 10 số, “An Nam tạp chí” bị đình bản, lúc này Ngô Tất Tố trở về quê. Năm sau, ông vào Sài Gòn tiếp tục viết cho các tờ báo: “Đông Pháp thời báo”, “Thần Chung” đén năm 1930. Đến 1935, ông mở tại Hà Nội hiệu thuốc bắc “Thọ dân y quán”, đồng thời dịch sách y học cho “Nhật Nam thư quán” và viết phóng sự: “Dao cầu thuyền tán” đăng trên báo “Công dân”. Sau đó ông bị chính phủ thực dân cấm không cho viết tờ “Hải Phòng tuần báo”, bắt đầu dời hiệu thuốc về quê và bị trục xuất khỏi các thành phố lớn. Ông dành dụm tiền mua lại của ông anh họ tuần phủ mảnh đất và ngôi nhà cũ để làm chỗ ở riêng cho bà Hai. Ngôi nhà ấy hiện còn lưu giữ hầu như nguyên vẹn tại làng Lộc Hà. Trong thời gian này, một loạt các tác phẩm của Ngô Tất Tố ra đời như: Tắt đèn, Lều chõng, Việc làng. Rồi phê bình “Nho giáo” của Trần Trọng Kim, Đường thi (dịch), sau đó lầ Lão Tử, Mặc Tử, rồi văn học đời Lý, văn học đời Trần, Hoàng Lê nhất thống chí (dịch). Khi cách mạng thành công thì ông đã mở lòng ra chào đón và ông đã thực sự hòa nhập cùng cách mạng. Ở quê Lộc Hà, ông đã tham gia Ủy ban giải phóng xã. Năm 1946, ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc và là nhà văn cao tuổi nhất lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến tại vùng Yên Thế, Bắc Giang. Ngày 1/5/1948, ông được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương cùng với Văn Cao và Kim Lân. Trong Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất, ông được bầu vào Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Tại Yên Thế, Bắc Giang,sau một thời gian bị đau nặng, Ngô Tất Tố đã từ trần vào ngày 20/4/1954(tức 18/3 năm Giáp Ngọ) trước ngày kháng chiến chống pháp thắng lợi, mộ của ông được đặt tại nghĩa trang liệt sĩ xã Mai Lâm. 1.2.2. Sự nghiệp sáng tác. *Vị trí trong nền văn học. Ngô Tất Tố là một cây bút hiện thực xuất xắc của nền văn học Việt Nam. Các tác

phẩm ông viết được nhiều người biết đến và thay đổi được nhận thức của họ. Ngô Tất Tố được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thật năm 1996. *Nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, thời kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ, cuộc sống bị đẩy xuống thảm hại đến mức phải tự kết liễu đời mình.Chính vì thế nhà văn dùng ngòi bút của mình để viết lên những áng văn phản ánh đúng hiện thực phũ phàng đó. Qua cuộc đời và số phận của nhân vật, Ngô Tất Tố muốn tố cáo và lên án chế độ sưu thuế, đánh đập con người một cách tàn bạo, không cho con người được tự do sống với chính mình. Cái sân đình để vui chơi giờ đây đã trở thành trại giam, nơi hành hạ con người đổ máu. Không chỉ vậy, tình vợ chồng, tình mẹ con, tình nghĩa xóm làng giữa con người cùng khổ nói đến một cách chân thực, số phận người phụ nữ, những em bé, những người cùng đinh được tác giả nêu lên với bao xót thương đau lòng. Về nghệ thuật, thông qua nhưng bi kịch đau đơn của nhân vật, Ngô Tất Tố đã thể hiện được những giá trị nhân đạo cao cả, vừa bộc lộ nỗi xót thương vô hạn cho thân phận những con người bất hạnh trong xã hội cũ. Với lối hành văn chân thực, chi tiết đan cài chặt chẽ, ấn tượng với đọc giả đã làm cho các nhân vật được thể hiện chân thực, những vẻ đẹp từ nhân vật chị Dậu. Những xung đột, những tình huống đẫ cho người phụ nữ ấy thể hiện đúng bản chất của người phụ nữ thương chồng yêu con, dù có khó khăn đến mấy chị cũng chịu được. Đặc biệt hơn, ngôn ngữ trong tác phẩm gần gũi với người dân nông thôn chất phác, giúp họ tiếp thu nhanh với tác phẩm. *Phong cách sáng tác. Ngô Tất Tố là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp , ông chuyên viết về đề tài người nông dân, người lao động trước cách mạng. Ông được coi là nhà văn hàng đầu của phong trào hiện thực phê phán, ông luôn khai thác và khám phá những thứ bên trong phẩm chất con người . Không chỉ vậy, với ngòi bút tài hoa này ông đã thắp lên ngọn lửa thù hận, cổ vũ nhân dân kháng chiến chống Pháp, muốn cho người nông dân thoát khỏi kiếp nô lệ tù đày, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Nổi bật trên hiện thực đó ông đã viết lên tác phẩm “Tắt đèn” trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán kể về cuộc sống lầm than của nhân dân dưới ánh đô hộ của thực dân Pháp. Sự thành công của tác phẩm được thể hiện rõ nhất qua nhân vật Chị Dậu, chính nhân vật đã làm cho con người thời đó có thêm sức mạnh, sự can đảm, tình yêu thương,... Nhân vật chị Dậu đã toát lên những vẻ đẹp cần có của người phụ nữ. Chị là một người có tình yêu thương gia đình vô cùng, hiếu thảo với mẹ,...Dù người phụ nữ đó có tình yêu đến mấy, vĩ đại đến mấy nhưng vẫn phải chịu cuộc sống khổ cực, bị rơi vào hoàn cảnh nghiệt ngã, phải lựa chọn giữa tình mẫu tử với tiền bạc. Có lẽ, nhân vật này là một nhân vật bi đáp nhất là bởi dù có mạnh mẽ đến đâu nhưng vẫn phải chịu đựng bọn quan lại, dù có yêu con đến đâu cũng phải bỏ con để lấy mấy đồng trả nợ, sống qua ngày… Tất cả nhằm tố cáo sự thối nát của xã hội phong kiến, lũ cướp nước ức hiếp dân nghèo, đẩy họ vào con đường cùng. Ông rất thành công ở nhiều lĩnh vc khác nhau như: khảo cứu, dịch thuật, viết báo, đặc biệt là viết văn. Về phương diện học thuật, ông là tác giả nhiều công trình nghiên cứu triết học, văn học cổ, lịch sử có giá trị. Cuốn ký sự lịch sử “Vua Hàm Nghi với việc kinh thành

thất thủ” (1935) đã biểu lộ một tinh thần yêu nước, thái độ căm ghét bọn tướng giặc và bọn Việt gian bán nước. Tuy xuất thân là một người cựu học như Ngô Tất Tố không phải là một người bảo thủ mà luôn luôn cố gắng vươn tới những tư tưởng tiến bộ của thời đại.Trong cuốn phê bình “Nho giáo” của Trần Trọng Kim (1940), ông phê phán nhắm mắt đề cao, xuyên tạc đối với Nho giáo của Trần Trọng Kim. Trong bộ Văn học Việt Nam, Ngô Tất Tố đã thiết tha mong muốn được giữ những bản sắc dân tộc, nét đẹp văn hóa dân gian. Và ông đặc biệt đề cao tư tưởng độc lập tự cường của văn chương thời Trần và phê phán tinh thần nô lệ bạc nhược, “bị trói buộc trong xiềng xích của nghề từ chương” đầy rẫy những văn chương học thuật phong kiến. Về dịch thuật, bản dịch ‘Đường thi” (1940) và “Hoàng Lê nhất thống chí” (1942) là những công trình nhiều giá trị. Trên lĩnh vực báo chí, ông là “ Một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà nho” (nhận xét của Vũ Trọng Phụng). Từ những năm 20, ông thường xuyên có mặt trên nhiều tờ báo ở Trung, Nam, Bắc: An Nam tạp chí, Thần chung, Thực nghiệp, Đông phương, Công dân, Tương lai… với nhiều bút danh: Lộc Hà, Lộc Đĩnh, Phó Chi, Thôn dân, Hy Cừ… Đặc biệt trong thời kì mặt trận dân chủ, do ảnh hưởng của phong trào đang dâng lên sôi sục, ngòi bút sắc bén của ông tỏ ra xông xáo, tung hoành. Với tấm lòng ưu ái trước thời thế, luôn luôn băn khoan về số mệnh đất nước, nhân dân. Ông đã đứng khá vững trên lập trường dân chủ, dõng dạc kết án tội ác của bọn thống trị và lên tiếng ủng hộ nhân dân đứng lên chống lại. Ông đã nhiều lần tố cáo những thủ đoạn cho vay nặng lãi cắt cổ của bọn nhà giàu và viết lên với các bài viết: “Rõ thật rắc rối cái con đường quan báo”, “Về cách làm giàu của nhiều quan lại An Nam” và viết một phóng sự vạch mặt bọn thâm ô bip bợm trên bài viết: “Dao cầu thuyền tán”. Ngô Tất Tố còn vạch trần tính giàu và viết các bài viết:”Rõ thật rắc rối cái con đường quan báo”, “Về cách làm giàu của nhiều quan lại An Nam”. Ông đã viết nhiều về cuộc sống nêu lên tình cảnh thê thảm bị áp bức bóc lột, bị thiên tai phá hoại mùa màng như: “Mời ông Gô đa thăm mới nơi này”, “Bắc Ninh cấp cứu”… Tuy chưa có được nhận thức cách mạng và vượt khỏi tư tưởng chính trị cải lương nên có những lệch lạc không tránh khỏi, nhưng ngòi bút của ông vẫn đầy tính chiến đấu và rất gần gũi với cách mạng. Về sáng tác văn học, những sáng tác của Ngô Tất Tố trước cách mạng là “Tắt đèn” (1939), “Lều chõng” (1939), “Việc làng” (1939). Ngoài ra còn một số tác phẩm tiêu biểu khác được đăng ở các bài báo. Với sự ra đời của tác phẩm “Tắt đèn” đã đánh dấu được bước chuyển nghệ thuật viết văn của Ngô Tất Tố và ông được mọi người biết đến. Tuy xuất thân từ một nhà Nho được học tập ở nền giáo dục cũ nhưng ông vẫn tỏ ra là người biết kịp thời đại. Có lẽ trong cuộc đời của ông, chỉ có sáng tác văn học mới làm ông thỏa mãn nhất, chỉ có con mắt của ông mới nhìn thấu được nổi khổ của nhân dân lao động. *Những tác phẩm tiêu biểu. Tắt đèn, Lều chõng, Thơ và Tình, Địa dư Việt Nam, Kinh dich, Suói thép, Trước lửa chiến đấu, Lão Tử, Đường Thi, Đề Thám, Trời hửng, Duyên máu, Việc làng, Địa dư các nước Châu Âu, Văn học đời Lý và văn học đời Trần,.....Tất cả tác phẩm của ông đều hướng tới con người và số phận con người.

1.3: Tác phẩm Tắt Đèn. 1.3.1: Bối cảnh lịch sử. *Bối cảnh chung: a) Bức tranh nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng 8: Nhắc đến Ngô Tất Tố, người ta không thể không nghĩ đến cái làng quê nghèo Việt Nam thời Pháp thuộc mà tiếng trống thúc thuế hằng năm đe dọa người nông dân như một tai họa khủng khiếp, đồng thời cũng là xứ sở của những nhiều hủ tục nặng nề được duy trì từ ngàn xưa cùng với chế độ phong kiến. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ở nước ta dân số nông dân chiếm tới trên 90% dân số cả nước. Người nông dân bị hai tròng áp bức là: thực dân và phong kiến. Phần lớn ruộng đất đều nằm trong tay địa chủ và chủ đồn điền của thực dân, có tới gần 60% số hộ dân không có ruộng đất, phải làm thuê, nộp tô nộp tức, sưu cao thuế nặng, quanh năm lam lũ, quanh năm đói rách. Cơ sở vật chất - kỹ thuật nông nghiệp còn hạn chế không đáng kể đến. Hệ thống đê điều được hình thành từ mấy trăm năm trước, hàng năm không được tu bổ đầy đủ, nên chỉ trong 40 năm (tính từ năm 1900) đã có tới 16 lần vỡ đê lớn. Hệ thống thủy nông chỉ tưới được cho phần nhỏ diện tích (15%), còn phần lớn phải dựa vào các trận mưa, vì vậy thường gặp phải cảnh "chiêm khê, mùa thối". Hầu hết diện tích chỉ cấy được một vụ lúa với năng suất rất thấp. Lương thực hàng năm không đủ dùng trong nước, nhưng bọn thực dân vẫn vơ vét để xuất khẩu, làm cho người dân sống trong cảnh năm nào cũng có người chết đói. Đặc biệt năm 1945 nước ta vừa gặp thiên tai, vừa bị phát xít ...


Similar Free PDFs