Tiểu luận nợ công hy lạp PDF

Title Tiểu luận nợ công hy lạp
Course Hướng dẫn viết tiểu luận
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 27
File Size 1.3 MB
File Type PDF
Total Downloads 96
Total Views 978

Summary

Download Tiểu luận nợ công hy lạp PDF


Description

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: DIỄN BIẾN, TÁC ĐỘNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG HY LẠP 1. Diễn biến cuộc khủng hoảng 1.1. Những tiềm ẩn từ giai đoạn trước khi khủng hoảng bùng nổ 1.2. Sự bùng phát của cuộc khủng hoảng nợ công 1.3. Chính sách Hy Lạp áp dụng để khôi phục nền kinh tế. 2. Tác động của khủng hoảng nợ công 2.1. Đối với chính Hy Lạp 2.2. Đối với nền kinh tế Châu Âu và toàn thế giới CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG 1. Thâm hụt ngân sách 2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm 3. Sử dụng nguồn vốn không hiệu quả 4. Thiếu tính minh bạch trong số liệu 5. Tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008 CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ LIÊN HỆ THỰC TRẠNG NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM 1. Bài học cho Hy Lạp, Châu Âu và thế giới 1.1. Với Hy Lạp 1.1.1. Chính sách tiền tệ giảm phát và đồng Euro 1.1.2. Chi tiêu Chính phủ 1.1.3. Chính sách quản lý nợ công 1.2. Với Châu Âu và thế giới 2. Liên hệ nợ công ở Việt Nam 2.1. Thực trạng nợ công Việt Nam 2.2. Cơ cấu nợ công Việt Nam 2.2.1. Nợ chính phủ 2.2.2. Nợ được chính phủ bảo lãnh 2.2.3. Nợ chính quyền địa phương 2.3. Gợi ý chính sách 2.3.1. Sử dụng vốn hợp lý và có hiệu quả 2.3.2. Ưu tiên rõ ràng trong chi tiêu nợ công 2.3.3. Thay đổi cách tính nợ công 2.3.4. Huy động vốn trong nước 2.3.5. Thực hiện kỷ luật tài khóa rõ ràng, nghiêm ngặt 2.3.6. Xây dựng một cơ chế quản lý nợ công hiệu quả 2.3.7. Chỉ định một “đầu mối” xử lý nợ công phù hợp 2.3.8. Minh bạch trong quản lý 2.3.9. Thu hút nguồn thu ngoại tệ 2.3.10. Xử lý nghiêm minh cán bộ có dấu hiệu sai phạm

MỤC LỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ Hình 1: Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng của Hy Lạp giai đoạn 2001-2009 (%) Hình 2: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp giai đoạn 2001-2009 (%) Hình 3: Biểu đồ thể hiện tổng nợ chính phủ so với GDP giai đoạn 2001-2009 (%) Hình 4: Biểu đồ thể hiện mức thâm hụt trung bình và tăng trưởng trung bình của Hy Lạp giai đoạn 1999-2008 (%) Hình 5: Mức độ nợ công trên GDP của Hy Lạp giai đoạn 2006-2018 Hình 6: Biểu đồ mức nợ công của Hy Lạp năm 2008-2018 (triệu euro) Hình 7: Biểu đồ GDP Hy Lạp giai đoạn 1960-2020 Hình 8: Biểu đồ Tỷ lệ thất nghiệp Hy Lạp giai đoạn 1981-2020 Hình 9: Tốc độ tăng trưởng GDP của Hy Lạp giai đoạn 2006-2020( %) Hình 10: Tỉ lệ nợ công trên GDP của Hy Lạp giai đoạn 2010-2014 Hình 11: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp 2008-2018(%) Hình 12: Bảng số liệu thực trạng nợ và thâm hụt ngân sách của EU năm 2009. (Đơn vị tính: tỷ lệ phần trăm GDP) Hình 13: Lợi suất trái phiếu chính phủ khu vực đồng tiền chung châu Âu ( đơn vị : phần trăm) Hình 14: Tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ qua các năm. Đơn vị: % - Nguồn: CNN Business Hình 15: Tỉ lệ lạm phát của Hy Lạp so với Đức và khối Eurozone Hình 16: GDP thực tế và nợ của Chính phủ Hy Lạp giai đoạn 1995-2015 Hình 17: Nợ công Việt Nam giai đoạn 2015-2019 Hình 18: Nợ nước ngoài của Chính phủ phân theo từng bên cho vay giai đoạn 20182019 Hình 19: Quy mô nợ công của Việt Nam giai đoạn 2011-2020(% GDP) Hình 20: Bảng tính toán vay và trả nợ của Chính phủ giai đoạn 2015-2019 Hình 21: Dư nợ Chính phủ giai đoạn 2015-2019 Hình 22: Nợ của chính quyền địa phương giai đoạn 2015-2020

LỜI MỞ ĐẦU

Khủng hoảng tài chính đang diễn ra ngày càng liên tục với cường độ mạnh và diễn biến phức tạp gây ra những hậu quả nặng nề đối với các quốc gia công nghiệp phát triển. Năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến nền kinh tế chao đảo, đến nay đang dần khôi phục lại tuy nhiên vẫn còn dư âm. Năm 2010, nợ công vượt lên mức quá cao so với mức an toàn ở những nền kinh tế phát triển, đang trở thành chủ đề nóng bởi đó là yếu tố có nguy cơ đe dọa những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế toàn cầu, làm lo ngại tới viện cảnh một lần nữa nền kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy giảm. Sự hiện hữu của ‘bóng ma’ khủng hoảng nợ đã và đang làm đau đầu các nhà lãnh đạo Liên minh Châu Âu. Chính điều đó đã đánh lên hồi chuông báo động cho tất cả các nước trên thế giới phải suy nghĩ nghiêm túc về tình trạng nợ công của chính quốc gia mình. Thiết nghĩ việc nghiên cứu “Khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp” là việc hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực và trên thế giới Đây là đề tài khá rộng và có tính bao quát, trong giới hạn tiểu luận này, nhóm học sinh lớp kinh tế vĩ mô KTE 203-K60.1 chỉ xin trình bày hiểu biết về những vấn đề sau: Chương I: Diễn biến, tác động và chính sách của cuộc khủng hoảng Hy Lạp phân tích diễn biến của cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp từ đó làm nổi bật tác động tới nền kinh tế Hy Lạp, Châu Âu và toàn thế giới và những chính sách Hy Lạp áp dụng giúp khôi phục nền kinh tế trong nước. Chương II: Nguyên dân dẫn tới cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp - Phân tích để làm rõ nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn tới sự suy giảm trầm trọng của nền kinh tế Hy Lạp. Chương III: Bài học kinh nghiệm và liên hệ thực trạng nợ công tại Việt Nam Kinh nghiệm đối với Hy Lạp, Châu Âu và thế giới rút ra từ cuộc khủng hoảng nợ công đồng thời trình bày thực trạng nợ công của Việt Nam và gợi ý chính sách. Bài nghiên cứu còn nhiều thiếu sót, mong nhận được sự góp ý.

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: DIỄN BIẾN, TÁC ĐỘNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG HY LẠP 1. DIỄN BIẾN 1.1. Giai đoạn trước sự bùng phát khủng hoảng trầm trọng Hy Lạp là một quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Nam Âu. Ngày 1 tháng 1 năm 1981, Hy Lạp trở thành thành viên thứ 10 của Liên minh châu Âu. Nền kinh tế Hy Lạp đã phát triển rất nhanh chóng với một nguồn vốn đầu tư lớn của nước ngoài đổ vào Hy Lạp để hiện đại hóa hệ thống hạ tầng cơ sở của nước này, xây dựng nền kinh tế Hy Lạp theo hướng hiện đại. Dịch vụ và du lịch ngày càng phát triển đã góp phần nâng cao mức sống của người dân. Dân số Hy Lạp khoảng 11,1 triệu người (năm 2009 theo International monetary fund) chiếm 2,5% dân số EU. Giai đoạn 2001-2009, Hy Lạp có GDP bình quân đầu người (current prices) trung bình khoảng 22,66 nghìn USD, tỷ lệ thất nghiệp trung bình là 9,4% (trong khi tỷ lệ này của EU là là 8,9%) nhưng lại duy trì được tốc độ tăng trưởng cao so với các nước trong EU Cơ cấu kinh tế của Hy Lạp năm 2009 như sau: Dịch vụ 76%, công nghiệp 20,6%, nông nghiệp 3,4%. Trong đó du lịch là ngành thế mạnh của Hy Lạp, là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu, đóng góp 15% GDP. Bên cạnh đó các ngành khác như tài chính ngân hàng, viễn thông, sản xuất thiết bị công nghệ cao cũng phát triển mạnh tại Hy Lạp. Những chính sách cải cách kinh tế hợp lý cùng với việc gia nhập Liên minh châu Âu đã giúp nền kinh tế Hy Lạp phát triển mạnh mẽ, đồng thời nâng cao mức sống cho người dân Hy Lạp. Chỉ số phát triển con người của Hy Lạp xếp thứ 22 thế giới, tốc độ tăng trưởng thường xuyên nằm ở mức cao so với các nước trong Eurozone. Bình quân giai đoạn 2001- 2009, GDP của Hy Lạp tăng khoảng 2,7%, trong đó năm 2009 GDP đạt khoảng 328,16 triệu USD, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 29,58 nghìn USD. Hình 1: Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng của Hy Lạp giai đoạn 2001-2009 (%)

Theo International monetary fund, kinh tế Hy Lạp tăng trưởng hàng năm khoảng 3,65% trong giai đoạn từ 2004-2007 do một phần là chi tiêu cho thế vận hội Athens 2004 và phần còn lại là sự gia tăng tín dụng mà đóng góp đáng kể là sự gia

tăng của tín dụng tiêu dùng. Năm 2006, tốc độ tăng trưởng đạt đỉnh điểm là 5,7%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng của EU với 3,7%. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng của Hy Lạp chỉ còn là -0,3%- đây được xem là sự tụt dốc không phanh trong tăng trưởng của kinh tế nước này. Năm 2009, GDP tăng trưởng đạt mức -4,3% là kết quả của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, các biện pháp tín dụng và thất bại của Athens để giải quyết thâm hụt ngân sách ngày càng tăng, gây ra do các nguồn thu của nhà nước không kịp với nhu cầu chi tiêu của chính phủ, thậm chí một số loại thuế còn chịu áp lực cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nợ công, lạm phát, thất nghiệp của Hy Lạp luôn ở mức cao so với khu vực Eurozone. Năm 2009, tình trạng thất nghiệp tăng cao, lên đến 9,6% là do những tác động của khủng hoảng tài chính. Hình 2: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp giai đoạn 2001-2009 (%)

Đến tháng 2/2009, thủ tướng Hy Lạp thừa nhận rằng nền kinh tế Hy Lạp đang trong tình trạng cần đặc biệt quan tâm khi bộ trưởng tài chính Châu Âu nhấn mạnh mối lo ngại về quy mô khoản nợ công rất lớn của đất nước này.

Hình 3: Biểu đồ thể hiện tổng nợ chính phủ so với GDP giai đoạn 2001-2009 (%)

Có thể thấy trong suốt thập kỷ trước khi khủng hoảng tài chính bắt đầu vào năm 2008, chính phủ Hy Lạp đã vay mượn rất nhiều từ nước ngoài để bù đắp cho thâm hụt ngân sách và tài khoản vãng lai. Khủng hoảng chính thức bùng nổ mạnh mẽ sau đó nhưng những tiềm ẩn nguy từ trước vẫn là vấn đề đáng quan tâm: - 2001: Hy Lạp gia nhập Eurozone Hy Lạp được mời vào khu vực đồng tiền chung từ trước đó (tháng 6/2000). Sau khi gia nhập, nước này trở thành thành viên thứ 12 của Eurozone, bỏ đồng Drachma để dùng Euro. Để đạt chuẩn, nước này phải chứng minh có nền kinh tế khỏe mạnh, đạt các tiêu chí về giá cả ổn định và tài chính công. - Tháng 8/2004: Hy Lạp tổ chức Olympic Athens Giữa năm 2004, Hy Lạp chi tới 9 tỷ euro để tổ chức Olympic, biến Thế vận hội mùa hè năm 2004 trở thành kỳ Olympic “đắt đỏ nhất” tại thời điểm đó. Tuy nhiên những công trình được xây dựng cho vận động viên, người hâm mộ và giới truyền thông sau đó lại hầu như không được sử dụng và ngày càng xuống cấp. Olympic Athens được coi là nguyên nhân trực tiếp đẩy Hy Lạp vào cuộc khủng hoảng nợ kéo dài suốt giai đoạn này. Lạm chi cho Olympic đã làm tăng nợ công và thâm hụt ngân sách của nước này. - 2004: Hy Lạp thừa nhận thổi phồng số liệu Cuối năm 2004, Chính phủ Hy Lạp thừa nhận đã thổi phồng các số liệu điều kiện để gia nhập Eurozone, đặc biệt là thâm hụt ngân sách giai đoạn 2000-2003. Điều kiện của Eurozone là thâm hụt dưới 3% GDP. Tuy nhiên, sau cuộc điều tra của Cơ quan Thống kê Liên minh Châu Âu - Eurostat, Bộ trưởng Tài chính Hy Lạp thừa nhận số liệu này chưa từng dưới 3% từ năm 1999. - Tháng 2/2007: Khởi phát cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu Thị trường thế chấp dưới chuẩn của Hoa Kỳ sụp đổ sau khi bong bóng nhà đất vỡ vào năm 2006.Cuộc khủng hoảng của Hoa Kỳ cuối cùng gây ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng toàn cầu và cuộc khủng hoảng tín dụng kéo dài đến năm 2009, làm sụp đổ tài sản tài chính toàn cầu Lehman Brothers và khiến chính phủ phải cứu trợ các ngân hàng ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Khi chi phí đi vay tăng lên và nguồn tài chính cạn kiệt, Hy Lạp không thể trả được nợ và khoản nợ ngày càng tăng. Thêm vào đó, Hy Lạp có mức thâm hụt trung bình cao nhất của EU và thấp hơn mức tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 1999-2008.

Hình 4: Biểu đồ thể hiện mức thâm hụt trung bình và tăng trưởng trung bình của Hy Lạp giai đoạn 1999-2008

)

Giai đoạn 2001-2008, báo cáo thâm hụt ngân sách trung bình của nước này là 5%/năm so với mức 2% trung bình của khu vực Châu Âu và thâm hụt tài khoản vãng lai vào khoảng trung bình 9%/ năm so với trung bình chung 1% của khu vực theo thống kê của IMF (World Economic Outlook, October 2009). Vào năm 2009, thâm hụt ngân sách ước đoán hơn 13% GDP. Nguyên do chủ yếu cho tình trạng này là do chi tiêu quá nhiều của Chính phủ. Cũng trong năm 2009, tình trạng thâm hụt gấp đôi của nước này tiếp tục được tài trợ khiến tỷ lệ nợ nước ngoài tăng lên khoảng 116,76% GDP. Cả thâm hụt ngân sách lẫn nợ nước ngoài đều trên mức cho phép theo quy định của liên minh tiền tệ và kinh tế EU. Niềm tin của Hy Lạp đối với các khoản tài trợ nước ngoài cho việc bù đắp thâm hụt ngân sách và cán cân vãng lai khiến cho nền kinh tế bị tổn thương nghiêm trọng và giảm niềm tin của các nhà đầu tư. 1.2. Khủng hoảng chính thức bùng nổ Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-2008 ảnh hưởng ít nhiều đến sự bền vững của nền kinh tế Hy Lạp. Vào khoảng giữa năm 2009, Thủ tướng Hy Lạp đã tiết lộ thâm hụt ngân sách nhà nước thực chất khác xa so với những báo cáo trước, công bố ước tính mức thâm hụt ngân sách năm 2009 là 12,7% GDP, cao hơn nhiều so với con số ước tính hiện tại của thị trường lúc đó là 6,7% GDP, một sự chênh lệch gần như gấp đôi con số ước tính ban đầu và gấp 4 lần cho phép của 1 quốc gia sử dụng đồng tiền Euro(3%). Tỷ lệ nợ công trên GDP cũng ngày càng tăng,với mức nợ công lên đến 126.7%. Đến cuối tháng 11/2009, giới phân tích dấy lên lo ngại về nguy cơ vỡ nợ hàng loạt của các quốc gia trong khu vực châu Âu trước sức ép của khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2008 và nợ nước ngoài của Hy Lạp quá cao. Tình trạng khủng hoảng nợ càng tồi tệ hơn khi tính minh bạch trong công khai thông tin nợ của Chính phủ không được đảm bảo. Các nghi ngờ về sửa số liệu, che giấu mức độ nợ và sự khai báo sai lệch về thu nhập thật sự đã khiến lòng tin của giới đầu tư vào

Hy Lạp càng sụt giảm nặng nề, cũng như niềm tin của các nhà đầu tư vào triển vọng tương lai của Hy Lạp. Hình 5: Mức độ nợ công trên GDP của Hy Lạp giai đoạn 2006-2018

(Ngay từ ban đầu, Hy Lạp đã không có đủ điều kiện để tham gia Eurozone. Với mức nợ công/GDP là 98,9% cao hơn mức tiêu chuẩn của Eurozone là 60%, Hy Lạp đã “hô biến” số liệu, chỉnh sửa sao cho phù hợp với mức đạt yêu cầu để được tham gia vào khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Kể từ khi Hy Lạp nắm quyền sử dụng đồng Euro, tình trạng vay mượn của Hy Lạp càng ngày càng nghiêm trọng, để rồi vào năm 2009, khi chính phủ mới lên nắm quyền, tất cả mọi thứ mới dần được tiết lộ…) Việc Hy Lạp khai gian số liệu vào năm 2009 đã khiến cho các tổ chức tài chính quốc tế hạ tín nhiệm của Hy Lạp, làm thành Athens khó khăn hơn trong việc kiếm các khoản vay mới. Tuy vậy, chính phủ Hy Lạp vẫn tiếp tục chào bán thành công các đợt trái phiếu để huy động vốn cho việc chi tiêu. Chính phủ Hy Lạp đã vay được 10,6 tỷ USD vào tháng 01/2010, 6,7 tỷ USD vào tháng 3/2010 và 2,07 tỷ USD vào tháng 4/2010 với mức lãi suất rất cao. Ngoài ra, Hy Lạp còn vay thêm 71,8 tỷ USD bằng các thỏa thuận trực tiếp với các nước và tổ chức tài chính quốc tế để thanh toán các khoản lãi và nợ gốc với thời gian đáo hạn đến gần. Động thái này càng làm cho nợ công của Hy Lạp tăng, trong khi năng lực trả nợ rất giới hạn. Nền kinh tế Hy Lạp càng lún sâu xuống lầy của khả năng vỡ nợ. Và ngày 23/4/2010, Hy Lạp tuyên bố mất khả năng trả nợ và chính thức kêu gọi hỗ trợ tài chính Để tránh được tương lai mù mịt của việc vỡ nợ của Hy Lạp, ngày 20/5/2010, bộ ba Troika gồm Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund-IMF), Ủy ban Châu Âu (European Commission) và Ngân hàng Trung ương Châu Âu(ECB) đã ra quyết định cho Hy Lạp vay 110 tỷ Euro(144 tỷ USD) trong thời hạn 3 năm, với lãi suất 5%/năm. Đổi lại, Hy Lạp phải cam kết cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 12% trong năm 2010 và đưa về dưới mức 3% theo tiêu chuẩn của Liên minh châu Âu vào năm 2013 ,đồng nghĩa với việc phải chấp nhận điều khoản phải cắt giảm chi tiêu, đồng thời tăng mức thuế và cải cách thể chế xã hội bằng biện pháp tài chính thắt chặt. Dù đã có sự hỗ trợ của Troika, Hy Lạp vẫn còn đứng trên bờ vực vỡ nợ, khi nợ công chiếm 175.2% GDP vào năm 2011, còn tăng 27.7% so với năm 2010. Tháng 2 năm 2012, EU

lại đưa ra khoản hỗ trợ tài chính thứ 2 cho Hy Lạp giá trị 130 tỷ Euro (166.67 tỉ USD), với 48 tỷ Euro để tái vốn hóa các ngân hàng, và trong đó có cả 53.5% số tiền ứng là khoản xóa nợ cho các doanh nghiệp với điều kiện Hi Lạp có thể giảm mức nợ xuống 120.5% vào năm 2020, đồng nghĩa với việc Hy Lạp phải “thắt lưng buộc bụng”, sử dụng nguồn vốn chi tiêu chính phủ ít nhất có thể và tăng thuế, và giảm mức lương tối thiểu của người dân 22%. Kể cả lần hỗ trợ thứ 2 này, cũng như lần 1, cũng kết thúc trong thất bại. Sau đó, vào tháng 7 cùng năm, chủ tịch ECB thông báo rằng sẽ làm bất cứ điều gì để cứu đồng Euro, để rồi tháng 9 năm đó, ông đã tuyên bố chính thức chương trình không giới hạn về việc mua trái phiếu để cứu lấy các vùng Eurozone đang gặp khó khăn, trong đó có Hy Lạp. Tháng 12, IMF cho Hy Lạp vay thêm 8.2 tỷ Euro (10.5 tỷ USD) và giảm lãi suất để khiến Hy Lạp giảm tỷ lệ nợ trên GDP xuống 124%. Sau đó, nhờ các biện pháp tài chính thắt chặt, tình trạng khủng hoảng đã dần hạ nhiệt. Trái lại, biện pháp tài khóa đã khiến cho 25000 công dân lao động của Hi Lạp bị đào thải, cùng với đó là sự chồng chất càng ngày càng lớn của cắt giảm lương, tăng mạnh trong thất nghiệp, cải cách thuế và nhiều sự giảm chi tiêu chính phủ khác. Đây là ngọn đuốc châm ngòi cho nhiều cuộc phản đối của các cộng đồng người dân Hy Lạp. ( trước đó cũng đã có nhiều cuộc nổi dậy phản đối IMF) Hình 6: Biểu đồ mức nợ công của Hy Lạp năm 2008-2018 (triệu euro)

Năm 2014, triển vọng của nền kinh tế Hy Lạp rất lạc quan. Chính phủ dự đoán thặng dư cơ cấu trong năm 2014, mở ra khả năng tiếp cận thị trường cho vay tư nhân đến mức toàn bộ thiếu hụt tài chính cho năm 2014 được bù đắp thông qua bán trái phiếu tư nhân. Tháng 4 năm 2014, các nhà đầu tư đã chào mừng Hy Lạp quay lại thị trường trái phiếu sau 4 năm vắng bóng, khiến nhiều người gọi đây là " điểm bắt đầu của sự kết thúc" .Sự cứu chữa IMF và EU cung cấp tuy vậy không thể làm nguôi ngoai tình trạng thất nghiệp với tỷ lệ thất nghiệp tăng kỷ lục 27% trong các nước EU, cùng với việc người dân phải chịu sống trong hoàn cảnh cùng cực, nghèo đói, nhiều người phải di cư kiếm sống. Năm 2015, đảng cánh tả chống biện pháp "thắt lưng buộc bụng" của IMF giành chiến thắng vang dội trong cuộc bầu cử chớp nhoáng với sự điều hành Thủ tướng Alexis Tsipras đã phá vỡ hơn 40 năm chế độ 2 đảng. Ông nói rằng sẽ có một đàm phán với Troika về các thỏa thuận trong cứu trợ tài chính, cắt giảm nợ cũng như thay đổi chi tiêu của công chúng. Đây cũng có thể lối thoát của Hy Lạp ra khỏi Eurozone. Tuy vậy, đề nghị của Alexis không được thông qua, và ông cũng phải chấp nhận gói cứu trợ

lần thứ 3 của IMF giá trị 86 tỷ Euro( lúc trước, 3-6-2015, Hy Lạp đã không hoàn trả được khoản nợ 1.6 tỷ đô của IMF). Tuy vậy, lần này Troika sẽ trực tiếp giám sát sự điều hành của nền kinh tế và hành chính công nước này, và bắt buộc áp đặt sự tăng thuế thêm nữa. Vào ngày 20 tháng 2 năm 2017, Bộ Tài chính Hy Lạp báo cáo rằng gánh nặng nợ của chính phủ đã đạt 226,36 tỷ Euro sau khi tăng 2,65 tỷ Euro trong quý trước. Đến giữa năm 2017, lợi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp bắt đầu đạt mức trước năm 2010, báo hiệu khả năng trở lại bình thường kinh tế cho đất nước. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), GDP của Hy Lạp ước tính tăng 2,8% trong năm 2017.Sau đó, ngày 2/5/2017, Chính phủ Hy Lạp và các chủ nợ gồm Liên minh châu Âu (EU), Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã đạt được thỏa thuận sơ bộ về các biện pháp "thắt lưng buộc bụng" để đổi lấy gói cứu trợ tài chính thứ 3 trị giá 86 tỷ Euro Năm 2018 là năm gói hỗ trợ thứ 3 của Troika hết hạn, và cũng đặt dấu chấm đằng sau cho hơn 8 năm khủng hoảng của nền kinh tế Hy Lạp. Nền kinh tế Hy Lạp cũng bước dần sang trang mới. Mặc dù tỷ lệ nợ công trên GDP vẫn ở mức 180%, tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể xuống từ 27% xuống khoảng 20%. 1.3. Chính sách Hy Lạp đã áp dụng giúp khôi phục nền kinh tế Tại Hy Lạp, trong hành trình giải cứu khỏi nguy cơ vỡ nợ, quốc gia này đã thực hiện liên tục năm đợt chính sách nhằm tăng nguồn thu cũng như giảm chi tiêu chính phủ, cụ thể: Đợt đầu tiên vào tháng hai năm 2010, chính phủ quyết định không tăng lương công chức, cắt giảm 10% phụ cấp, cắt lương làm thêm giờ… Đợt thứ hai diễn ra chỉ một tháng sau đó, tiền phụ cấp giảm tiếp 12%, 46 lương công chức cũng giảm 7%, thuế giá trị gia tăng tăng từ 19% lên 21%, cùng hàng loạt các loại thuế mới được đặt thêm. Hai tháng sau đó, đợt thứ ba được ban hành. Lần này chính phủ giảm cả lương hưu, tăng tuổi về hưu, thuế giá trị gia tăng lại tăng tiếp lên 23%. Sang đến giữa năm 2011, đợt thứ tư diễn ra. Lương hưu lại tiếp tục bị cắt giảm, các đối tượng có thu nhập cao bị đánh thuế mạnh hơn, cùng với việc gia tăng thuế bất động sản cùng các tài sản có giá trị khác. Cuối cùng đầu năm 2012, chính phủ lại tiếp tục cắt giảm tiền lương tối thiểu, sửa đổi luật tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh nhiều hơn và sa thải được nhiều nhân công hơn, các chi tiêu cơ bản cho y tế và quốc phòng cũng bị cắt giảm. Việc liên tục phải có những chính sách mới nhằm làm giảm thâm hụt là do khi đã thực hiện chính sách thắt chặt, kinh tế suy thoái dẫn đến nguồn thu không nhiều, hiệu quả của các chính sách không cao và chính phủ lại tiếp tục phải có những chính sách mới thắt chặt hơn nữa (Nelson, Belkin & Mix, 2010). Những khoản tiền được bộ ba chủ nợ bơm vào nề...


Similar Free PDFs