Tiểu luận Triết 1 PDF

Title Tiểu luận Triết 1
Course Kinh tế chính trị
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 17
File Size 287.9 KB
File Type PDF
Total Downloads 31
Total Views 222

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ=====000=====TIỂU LUẬN TRIẾT HỌCPHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN DỤNG PHÂNTÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔITRƯỜNG SINH THÁISinh viên thực hiện: ABCMã sinh viên: 1234LớpGiảng viên hướng dẫn:Hà Nội – 11/20xxMỤC LỤCLờ...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ =====000=====

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

Sinh viên thực hiện: ABC Mã sinh viên: 1234 Lớp Giảng viên hướng dẫn:

Hà Nội – 11/20xx

MỤC LỤC Lời mở đầu Phần nội dung I. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến 1. Tổng quan về “Phép biện chứng” và “Phép biện chứng duy vật” 2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến 2.1. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến 2.2. Tính chất của mối liên hệ 2.3. Ý nghĩa phương pháp luận II. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 1. Khái quát về vấn đề tăng trưởng kinh tế và vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái 1.1. Khái niệm “Tăng trưởng kinh tế” và “Môi trường sinh thái” 1.2. Tầm quan trọng của “Tăng trưởng kinh tế” và “Bảo vệ môi trường sinh thái” 2. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái thông qua phép biện chứng 2.1. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái 2.2. Thực trạng môi trường và hậu quả hiện nay do các chính sách tăng trưởng kinh tế gây ra 2.2.1. Trên thế giới 2.2.2. Ở Việt Nam 3. Giải pháp cho vấn đề ô nhiễm môi trường do tác động của tăng trường kinh tế Phần kết luận Tài liệu tham khảo

Lời mở đầu

Trong kỷ nguyên hiện nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, cùng sự ra đời của cuộc cách mạng công nghệ 4.0, thế giới đang chứng kiến nhiều hơn những quốc gia với nền kinh tế chuyển mình, nhảy vọt một cách ngoạn mục. Việt Nam cũng chính là một trong những đại biểu nổi bật trong số các quốc gia đó. Chúng ta đang sống trong một xã hội công nghiệp hóa hiện đại hóa, xã hội của sự văn minh và phát triển. Những thành tựu lớn lao là không thể phủ nhận, song, ta không thể không kể đến hệ lụy cấp bách mà nó kéo theo – Ô nhiễm môi trường. Việc Formosa thải hóa chất xuống biển, ô nhiễm đất, nguồn nước, hay việc ô nhiễm không khí Việt Nam đạt mức nguy hại,… đang làm chúng ta nhận thức ngày một rõ hơn về những nguy cơ, hiểm họa khôn lường mà môi trường của chúng ta đang gặp phải. Nói cách khác, để có được những kết quả ngắn hạn tốt đẹp về kinh tế, chúng ta đã và đang phải trả giá bằng sự mất đi tính bền vững của môi trường, của thiên nhiên Việt Nam trong dài hạn. Theo “Báo cáo phát triển thế giới” năm 1992 của Ngân hàng thế giới, “Tăng trưởng kinh tế là một phương tiện cơ bản để có thể có được phát triển, nhưng bản thân nó chỉ là một đại diện rất không hoàn hảo của tiến bộ xã hội”. Để làm rõ hơn về sự “không hoàn hảo” đó, tiểu luận của tôi sẽ nghiên cứu về mối liên hệ cũng như những ảnh hưởng của việc tăng trưởng kinh tế với môi trường qua việc vận dụng phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến. Từ đó, mong rằng bài tiểu luận này phần nào có thể cung cấp một cái nhìn khách quan nhất, hướng được người đọc đến góc nhìn rõ hơn về mối quan hệ này. Qua đó, góp phần nhỏ trong quá trình giúp thay đổi xã hội Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung, để có được những bước đi đúng đắn, hòa hợp sự tăng trưởng kinh tế với việc bảo vệ môi trường vì một tương lai bền vững.

Phần nội dung I. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến. 1. Tổng quan về “Phép biện chứng” và “Phép biện chứng duy vật” Trong chủ nghĩa Mác – Lênin, “biện chứng” là khái niệm triết học dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác lẫn nhau, chuyển hoá, vận động và phát triển theo quy luật nhất định trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan (biện chứng của thế giới vật chất) và biện chứng chủ quan (sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong đầu óc, ý thức con người). “Phép biện chứng” ra đời từ triết học thời cổ đại, đến nay đã phát triển qua ba hình thức, ba trình độ cơ bản: Phép biện chứng chất phác thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin. Khái niệm này dùng để chỉ học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Ngày nay phép biện chứng đạt đến trình độ cao nhất đó là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”1.

2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến 2.1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến: Triết học Mác khẳng định: Cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là thuộc tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện tượng dù đa dạng và khác nhau đến mấy thì chúng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất mà thôi. Ngay bản thân ý thức vốn không phải là vật chất nhưng cũng chỉ là sự phát triển đến đỉnh cao của một thuộc tính, của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con người, nội dung của ý thức có mối liên hệ 1 C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn t ập, Nxb. Chính tr ịquốốc gia, Hà Nộ i, 1994, t.20, tr. 201.

chặt chẽ với thế giới bên ngoài. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, liên hệ là một phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự quy định, tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Triết học nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến – những mối liên hệ chung nhất, có ở hầu hết sự vật, hiện tượng trong thế giới. 2.2.Tính chất: • Tính khách quan: Các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, do tính thống nhất vật chất của thế giới; KHÔNG phụ thuộc vào ý thức của con người • Tính phổ biến: Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào; ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần, yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phàn, những yếu tố khác. • Tính đa dạng, phong phú: Trong thế giới có vô vàn mối liên hệ khác nhau (không gian, thời gian, …). Khi nghiên cứu hiện thực khách quan có thể phân chia mối liên hệ thành từng loại khác nhau tùy tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp. Trong đó có những mối liên hệ bên trong, trực tiếp, chủ yếu, bản chất và tất nhiên bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng, quyết định cho sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. 2.3.Ý nghĩa phương pháp luận: Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng chúng ta rút ra được hai phương pháp luận bao gồm: quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể trong việc nhận thức, xem xét sự vật hiện tượng cũng như trong các hoạt động thực tiễn cuộc sống. Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn nhau, mang tính khách quan, phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, tránh cách xem xét phiến diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi ta phải nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại

giữa các bộ phận, yếu tố, giữa các mặt trong chính sự vật và trong sự tác động qua lại với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp. Phải biết phân biệt từng mối quan hệ, chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, chủ yếu, tất nhiên và lưu ý đến sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất cửa sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. Trong thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. VD: Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại. Quan điểm lịch sử - cụ thể đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người bởi các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú – sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời gian khác nhau, các mối liên hệ biểu hiện cũng là khác nhau. Quan điểm này đòi hỏi ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. VD: Để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, từng thời kỳ xây dựng đất nước; bao giờ Đảng cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó, việc nắm chắc cơ sở lý luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cũng rất quan trọng bởi có như vậy, ta mới biết vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể một cách sáng tạo trong chính các nhiệm vụ, hoạt động của mình. II. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 1. Khái quát về vấn đề tăng trưởng kinh tế và vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái a. Khái niệm i. Tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự tích lũy tài sản (như vốn, lao

động và đất đai) và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư là trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế2 ii. Môi trường sinh thái: Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu. Sự rối loạn bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng. Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một bộ phận của thiên nhiên. Thông qua quá trình lao động, con người khai thác bảo vệ bồi đắp cho thiên nhiên. Cũng qua quá trình đó con người xã hội dần dần có sự đối lập với tự nhiên.3 b. Tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái Tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế thể hiện ở phần đóng góp của nó đối với sự thịnh vượng chung của cộng đồng. Mọi người đều muốn có tăng trưởng là vì nó tạo điều kiện cho cộng đồng tiêu dùng nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Ngoài ra, tăng trưởng đóng góp vào việc cung cấp số lượng lớn hơn hàng hóa và dịch vụ xã hội (y tế, giáo dục,...) qua đó cải thiện mức sống thực tế. Tăng trưởng kinh tế thường được tính bằng mức tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo thời gian hoặc mức tăng GDP đầu người theo thời gian. Chỉ tiêu sau gắn mức tổng sản lượng với những thay đổi về dân số. Bởi vậy, nếu tổng sản lượng chỉ tăng nhanh hơn một chút so với mức tăng dân số, mức sống bình quân chỉ được cải thiện không đáng kể. Với tư cách là nơi chứa đựng và cung cấp tài nguyên cho đời sống sản xuất của con người, là không gian sống lý tưởng cho toàn bộ sinh vật trên Trái đất, chứa đựng chất thải – chức năng sống còn của môi trường, là nơi lưu giữ, cung cấp thông tin cho con người. Môi trường là nguồn sống thiết thực và mang lại cho con người sự phát triển phồn thịnh nhất. Hoạt động bảo vệ môi trường tác động toàn diện đến các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và đặc biệt là bản thân con người, với tư cách vừa là khách thể, lại vừa chủ thể chi phối, quyết định chất lượng môi trường. 2 Các lý thuyếốt tăng tr ưở ng kinh tếố, Ch ương trình Gi ng ả d yạ Kinh tếố Fullbright 3 http://hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=8100&Itemid=5167&lang=vi&site=51

Việc xây dựng môi trường nhân văn, môi trường sinh thái - nhân văn có tầm quan trọng quyết định tới không chỉ mỗi cá nhân mà còn là toàn bộ sự nghiệp bảo vệ môi trường nói riêng và phát triển bền vững nói chung. 2. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái thông qua phép biện chứng 2.1. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái Tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái không độc lập và tách rời nhau. Giữa chúng có một mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại cho nhau, theo cả chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực. - Theo hướng tích cực a) Tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế lên môi trường Sự tăng trưởng kinh tế sẽ tạo nên nền tảng của cải, vật chất để mỗi quốc gia đẩy mạnh việc bảo vệ môi trường. Tác động này được biểu hiện cụ thể qua các phương diện: - Thúc đẩy tập trung các chính sách bảo vệ môi trường: Một phần của cải tăng lên từ sự tăng trưởng kinh tế được nhà nước sử dụng cho mục đích bảo vệ, giữ gìn môi trường sinh thái. Tăng trưởng kinh tế giúp tăng nguồn của cải, tiền bạc. Do đó, lượng vốn dùng cho chính sách bảo vệ môi trường cũng tăng lên. Theo luật bảo vệ môi trường, chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường có quy định cụ thể: Ðầu tư bảo vệ môi trường là đầu tư phát triển; đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường và bố trí khoản chi riêng cho sự nghiệp môi trường trong ngân sách nhà nước hằng năm. - Phát triển khoa học, công nghệ thân thiện với môi trường: Tăng trưởng kinh tế dẫn đến sự ra đời của các loại máy móc, thiết bị mới thân thiện với môi trường, ít gây ô nhiễm và cả những máy lọc xử lí rác thải, khí thải. Việc phát minh và đưa vào sử dụng các máy móc và thiết bị mới để hạn chế đến mức cao nhất tác hại đến môi trường cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ môi trường. Tiến bộ khoa học giúp tạo ra những sản phẩm thân thiện với môi trường nhưng cũng bắt nguồn từ nguồn vốn hỗ trợ của nền kinh tế thì mới phát huy được tác dụng. - Góp phần nâng cao ý thức người dân: Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cao cho sự phát triển xã hội, trong đó ý thức người dân về vấn đề môi trường dần được cải thiện. Thông qua giáo dục, tuyên truyền được tài trợ từ Chính phủ, tình trạng đốt nương làm rẫy của đồng bào các dân tộc thiểu số

miền núi Tây Bắc, Tây Nguyên dần hạn chế và chấm dứt. Ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường, cảnh quan đường phố, khu vực công cộng,… cũng được nâng cao. b) Tác động tích cực của môi trường đối với việc tăng trưởng kinh tế Xét về mặt tích cực, tăng trưởng kinh tế không chỉ có tác động một chiều đến môi trường, mà ngược lại, môi trường cũng có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới kinh tế. Việc bảo vệ môi trường được thực hiện tốt sẽ đảm bảo một môi trường sống và làm việc trong lành, lành mạnh.Một môi trường trong lành, ít khói bụi, ô nhiễm mang đến cảm giác thoải mái, tỉnh táo hơn cho mọi người, giảm thiểu rủi ro về bệnh dịch.Sức khỏe tốt sẽ giúp cho công việc được hoàn thành tốt, mau chóng hơn. Bảo vệ môi trường gắn liền với vấn đề bảo vệ tài nguyên. Tài nguyên thiên nhiên nếu được quản lí khai thác có hiệu quả, đúng mức, được giữ gìn và bảo vệ sẽ là nền tảng vững chắc cho sự tăng trưởng kinh tế lâu dài của một quốc gia. Việt Nam hiện được các nhà nghiên cứu đánh giá là nơi có tiềm năng để phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời. Theo thống kê, Việt Nam là một trong những quốc gia có cường độ sử dụng năng lượng cao so với các nước trong khu vực và trên thế. Năng lượng mặt trời ở Việt Nam có sẵn quanh năm, khá ổn định và phân bố rộng rãi trên các vùng miền khác nhau của đất nước. Tuy nhiên, chi phí đầu tư là rào cản lớn cho việc phát triển các dự án điện mặt trời ở Việt Nam. Với việc ban hành các chính sách hỗ trợ để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp năng lượng mặt trời của Chính phủ Việt Nam đã và đang góp phần đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư năng lượng mặt trời ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Do đó, trong năm 2019, lĩnh vực năng lượng xanh này đã thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong tháng 6/2019, Công ty Cổ phần TTP Phú Yên cũng đã tổ chức lễ khánh thành, chính thức đưa vào vận hành Nhà máy điện mặt trời Hòa Hội. Đây là dự án năng lượng tái tạo lớn nhất trên địa bàn tỉnh Phú Yên với tổng vốn lên đến 4.985 tỷ đồng. Về vốn đầu tư nước ngoài, nổi lên nhất là các nhà đầu tư Thái Lan với chính sách đầu tư mua lại cổ phần các dự án điện mặt trời tại Việt Nam. Đó là, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Thái Lan (EXIM Thailand) đã công bố tăng thêm 65 triệu USD cho 2 công ty Eastern Power Group Plc và Communication & System Solution Plc để cấp vốn cho việc xây dựng 2 nhà

máy điện mặt trời tại Phú Yên với công suất phát điện kết hợp khoảng 100 MW. Bảo vệ môi trường sinh thái cũng đi đôi với việc dự báo và phòng chống thiên tai. Hằng năm, miền Trung nước ta hứng chịu rất nhiều cơn bão lớn có sức tàn phá khủng khiếp, gây thiệt hại rất lớn cả về người và tài sản. Việc phá rừng, đốt nương là rẫy dẫn đến hiện tượng xói mòn, sạt lở đất, lũ quét ở miền núi thường xuyên. Bảo vệ môi trường sẽ hạn chế một cách hữu hiệu các thiên tai, dịch bệnh phát sinh từ các thiên tai. Từ đó, kinh tế quốc gia mới tăng trưởng một cách ổn định. Như vậy, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường có mối liên hệ tích cực, tác động qua lại lẫn nhau. Một nền kinh tế chỉ thực sự tăng trưởng có hiệu quả khi đi liền với nó là một môi trường được gìn giữ, bảo vệ. Đó là mặt tích cực trong mối quan hệ giữa hai yếu tố này. - Theo hướng tiêu cực: Ở phần trên, ta đã xem xét mối liên hệ, tác động tích cực giữa bảo vệ môi trường và tăng trưởng kinh tế. Thế nhưng, vấn đề nào cũng có hai mặt. Những ảnh hưởng tiêu cự là điều cần bàn luận trong phần này. Trước tiên, ta xét đến việc tăng trưởng kinh tế tác động xấu đến môi trường sinh thái ở những khía cạnh nào. Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế đồng nghĩa với việc làm suy giảm nghiêm trọng nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một lần nữa, khía cạnh tài nguyên thiên nhiên trong mối quan hệ giữa hai phạm trù môi trường và kinh tế lại được nhắc đến. Đây là khía cạnh xét đến đầu tiên trong tác động tiêu cực của tăng trưởng kinh tế, bởi tài nguyên thiên nhiên là yếu tố gắn liền với môi trường và còn là một nguồn lực chủ yếu của sự phát triển kinh tế. Thế nhưng, khi nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng, người ta chỉ tập trung vào khai thác tài nguyên một cách triệt để để đáp ứng đủ nhu cầu đầu vào của các ngành sản xuất. Muốn đẩy mạnh ngành nông – lâm – ngư nghiệp, hàng trăm nghìn héc-ta cây rừng đổ xuống để làm nương, làm rẫy, chăn thả gia súc. Thực trạng khai thác vượt mức quy định những nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá của đất nước ta hiện nay dễ dàng bắt gặp qua những con số thống kê trên các mặt báo. Để đáp ứng nhu cầu trong nước, nền kinh tế Việt Nam chưa có khả năng nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu, và cũng chưa có kinh nghiệm chế tạo các loại nguyên liệu mới. Do đó khai thác tài nguyên sẵn có của nước nhà là phương án tối ưu để tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Dẫu vậy, tài nguyên thiên nhiên không phải là vô hạn, và việc khai thác quá mức tất

yếu sẽ dẫn đến suy kiệt nguồn tài nguyên, từ đó làm nghèo nàn sức sống của môi trường sinh thái. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế góp phần chủ yếu dẫn đến một trong những bài toán nan giải nhất của cả thế giới nói chung và của Việt Nam nói tiêng – ô nhiễm môi trường. Trước hết, kinh tế mở rộng kéo theo sự gia tăng số lượng các nhà máy, xí nghiệp, khu chế xuất, các công trình xây dựng. Những nhà máy, xí nghiệp này, trong quá trình cạnh tranh gay gắt về năng suất, đã lơ là việc xử lí rác thải, chất thải trước khi thải ra ngoài môi trường. Những con sông, cánh đồng, kênh rạch, bầu không khí và ngay cả các khu dân cư xung quanh những nhà máy ấy phải hứng chịu những luồng khí độc hại, những đống phế liệu chất đống cùng nguồn nước thải đen ngòm, bốc mùi chưa qua xử lí triệt để. Thêm...


Similar Free PDFs