TIỂU-LUẬN-TRIẾT - Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Tính tất PDF

Title TIỂU-LUẬN-TRIẾT - Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Tính tất
Course Triết 1
Institution Đại học Kinh tế Quốc dân
Pages 14
File Size 276.1 KB
File Type PDF
Total Downloads 177
Total Views 896

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------BÀI T P L N MÔNẬ Ớ TRIẾẾT H C MÁC –ỌLẾNINĐỀ TÀI: VẬN DỤNG LÝ LUẬN MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÂN TÍCH TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VIỆT NAM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NG...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾẾT HỌC MÁC – LẾNIN ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG LÝ LUẬN MỐI QUAN HỆ BIỆN

CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÂN TÍCH TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VIỆT NAM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Họ và tên SV: Nguyễn Hữu Khánh Hưng Lớp tín chỉ: Đầu tư Tài Chính 62 Mã SV: 11205413 GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU

HÀ NỘI, NĂM 2020

MỤC LỤC

LỜI DẪN........................................................................................................................................................................3 NỘI DUNG CHÍNH......................................................................................................................................................4 I)MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT.....................5 1. KHÁI NIỆM LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.........................................................................................................................5 2. KHÁI NIỆM QUAN HỆ SẢN XUẤT..............................................................................................................................6 3. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT................................................7 II) TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.....................................................................................................7 1. KHÁI NIỆM VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA...................................................................................................7 2. TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐÁI HÓA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ............................................................................................................................................................9 KẾT LUẬN....................................................................................................................................................................9 TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................................................14

2

LỜI DẪN Công cuộc xây dựng xã hội mới phải được tiến hành toàn diện trên các mặt: quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền văn hoá và những con người của xã hội. Công nghiệp hóa chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất, kĩ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước. Tuy nhiên, tuỳ từng nước khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên không giống nhau cách thức tiến hành xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại sẽ không giống nhau. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào thự hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ những lý do trên em quyết định chọn đề tài " Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phân tích tính tất yếu công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" Vì thời gian hoàn thành có hạn cũng như vốn hiểu biết còn nông cạn và ít ỏi của mình, bài tiểu luận của em khó tránh khỏi những sai sót và khuyết điểm còn phải sửa đổi và bổ sung. Vì vậy em rất mong và trân trọng mọi ý kiến đóng góp của thầy để từ đó em có thể củng cố được vốn hiểu biết của mình. Em xin chân thành cảm ơn thầy.

3

NỘI DUNG CHÍNH I) MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT 1. Khái niệm về lực lượng sản xuất 2. Khái niệm về quan hệ sản xuất 3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất II) TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 1. Khái niệm về Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa 2. Tính tất yếu của quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam thời kỳ quá độ lên CNXH III) KẾT LUẬN

4

I) MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT 1. Khái niệm của lực lượng sản xuất a. Khái niệm. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Trình độ của lực lượng sản xuất, thể hiện trình độ trinh phục tự nhiên của loài người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của loài người. b. Nội dung. Lực lượng sản xuất bao gồm:  Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động.  Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất thói quen lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.  Tư liệu sản xuất bao gồm: - Đối tượng lao động và Tư liệu lao động Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên, mà chỉ có một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất. Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn, mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Tư liệu lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động, chúng dẫn chuyền sự tác động của con người vào đối tượng lao động. Đối với mỗi thế hệ mới những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát cho thế hệ tương lai. Vì vậy những tư liệu lao động đó là cơ sở sự kế tục của lịch sử. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng kết hợp với đời sống. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không thể phát huy được tác dụng, khồg thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội. Các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thường xuyên có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong sự phát triển của hệ thống công cụ lao động và trình độ khoa học-kĩ thuật, kĩ năng lao động của con người đóng vai trò quyết định. Con người là nhân tố trung tâm và là mục đích của nền sản xuất xã hội. Lênin viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động “. 5

Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà thành phần con người cấu thành lực lượng sản xuất cũng thay đổi. Người lao động trong lực lượng sản xuất không chỉ gồm người lao động chân tay mà còn cả kĩ thuật viên, kĩ sư và cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp quá trình sản xuất.

2. Khái niệm về quan hệ sản xuất a. Khái niệm. Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: Sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế - xã hội và quan hệ kinh tế tổ chức. Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế xã hội. Một kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế xã hội nhất định. b. Nội dung. Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau:  Quan hệ giữa người với người đổi việc về tư liệusản xuất.  Quan hệ giữa người với người đổi việc tổ chức quản lý  Quan hệ giữa người với người đổi việc phân phối sản phẩm lao động Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những mối quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào. Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: ‣ Sở hữu tư nhân ‣ Sở hữu xã hội Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế hiện thực giữa người với người trong xã hội. Đương nhiên để cho tư liệu sản xuất không trở thành “vô chủ” phải có chính sách và cơ chế rõ ràng để xác định chủ thể sở hữu và sử dụng đối với những tư liệu sản xuất nhất định. Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò quan trọng. Những quan này có thể góp phần củng cố quan hệ sở hữu và cũng có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu. Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị mỗi hình thái kinh tế xã hội ấy. Vì vậy khi

6

nghiên cứu, xem xét tính chất của một hình thái xã hội thì không thể nào nhìn ở trình độ của lực lượng sản xuất mà còn phải xem xét đến tính chất của các quan hệ sản xuất.

3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định sự

vận động, phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất có tác động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. C.Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ”. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội. Sự tác động của nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội cao hơn.

II) TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 1. Khái niệm Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa 7

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Công nghiệp hoá, thường được hiểu đơn giản là một quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp. Công nghiệp hóa gắn liền với việc xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý, trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế nhằm xóa bỏ tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội, tối ưu hóa các nguồn lực và lợi thế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn định. Hội nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 khoá VI và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã xác định công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Song dù muốn hay không công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay trước mắt nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Song có lẽ sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không quan tâm giải quyết những vấn đề xã hội. Thực tiễn nước ta và kinh nghiệm của một số nước đang phát triển cho thấy ngay từ bước đầu tiên của việc hoạch định chiến lược và chương trình phát triển nhất thiết phải đảm bảo tính đồng bộ giữa kinh tế xã hội, cùng với sự phát triển kinh tế phải xây dựng những mặt thuộc hạ tầng của đời sống xã hội, tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá nâng cao đời sống nhân dân. Như vậy công nghiệp hoá là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học công nghệ ngày càng hiện đại.

8

Khái niệm công nghiệp hoá trên đây được Đảng ta xác định rộng hơn những quan niệm trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội. Như vậy công nghiệp hoá theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây. Về hiện đại hóa, khoa học công nghệ hiện đại là nhân tố then chốt của hiện đại hoá. Hiện đại hoá có nội dung lớn và phong phú, bao gồm các mặt kinh tế, chính trị và văn hoá. Hiện đại hoá thường được định nghĩa là một quá trình mà nhờ đó các nước đang phát triển tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị và củng cố cơ cấu xã hội nhằm tiến tới một hệ thống kinh tế, xã hội và chính trị giống hệ thống của những nước phát triển. Hiện đại hoá cưỡng bức dập khuôn sẽ làm bại hoại cho quốc gia vì nó đối nghịch với bản sắc dân tộc, thù địch với dân chủ.

2. Tính tất yếu của quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH Ở Việt Nam, sau khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH (1954), Đại hội III của Đảng (9-1960) đã đề ra đường lối cách mạng XHCN mà nội dung chủ yếu là tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất; cách mạng khoa học, kỹ thuật; cách mạng tư tưởng, văn hóa; trong đó cách mạng khoa học, kỹ thuật là then chốt; coi công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Xây dựng công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến. Ra đời các khu công nghiệp Thái Nguyên, Việt Trì, Thượng Đình, Nhà máy Thủy điện Thác Bà. Khi đất nước thống nhất (30-4-1975), Đại hội IV của Đảng (12-1976), trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước đã tiếp tục phát triển quan điểm đó, nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hóa XHCN và cách mạng khoa học, kỹ thuật để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Chú trọng phát triển nguồn năng lượng, điện lực phải

9

đi trước một bước. Phát triển công nghiệp cơ khí, luyện kim, công nghiệp hóa chất, vật liệu xây dựng. Rất coi trọng các ngành công nghiệp nặng. Việt Nam và các nước XHCN trước đây khi bắt đầu nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH đều tập trung vào xây dựng quan hệ sản xuất XHCN mà vấn đề hàng đầu là xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, thiết lập chế độ công hữu dưới hai hình thức quốc doanh (nhà nước) và tập thể. Tiếp đó là xác lập cơ chế kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, quản lý tập trung trong tay Nhà nước, hạn chế yếu tố thị trường tự do; thực hiện chế độ phân phối theo lao động mà thực chất là phân phối bình quân, bao cấp. Vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã không được nhận thức đúng. Các nước XHCN đều xóa bỏ ngay lập tức chế độ sở hữu tư nhân và coi công hữu về tư liệu sản xuất là thước đo trình độ và là bản chất của CNXH. Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản (10-1847), Ph. Ăngghen trả lời câu hỏi thứ 17: “Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không?”, đã nêu rõ: “Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng nền kinh tế công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu” (trích C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tr.469). Chỉ dẫn trên đây của Ph. Ăngghen là dựa trên cơ sở khoa học và hiện thực và có giá trị sâu sắc. Sau này, V.I. Lênin nêu ra những đặc trưng của thời kỳ quá độ trong đó có đặc trưng về sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế và sở hữu tư nhân. Rất tiếc, nguyên lý và những đặc trưng đó đã không được nhận thức và vận dụng đúng đắn ở các nước XHCN trước đây. Cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Các nước XHCN lâm vào khủng hoảng, trì trệ về phát triển kinh tế dẫn tới sự bất ổn chính trị ở một số nước. Việt Nam cũng rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ năm 1979. Yêu cầu khách quan là phải tìm con đường đổi mới. Trải qua khảo nghiệm thực tiễn kết hợp với nhận 10

thức lại các quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, Đại hội VI Đảng (12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới các chính sách kinh tế. Đường lối đổi mới dựa trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn mấy chục năm xây dựng CNXH ở Việt Nam, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tự phê bình nghiêm túc về căn bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội, nhận thức và hành động một cách giản đơn và cả căn bệnh bảo thủ, trì trệ, giáo điều. Đại hội VI đã nêu ra những bài học cần thiết, trong đó có bài học: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng” (trích ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 47, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.363). Có nhiều quy luật của thời kỳ quá độ chưa được nhận thức và vận dụng đúng đắn, không thúc đẩy mà còn tác động tiêu cực đến sự phát triển, trong đó có quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong khi lực lượng sản xuất còn rất kém phát triển do điểm xuất phát của Việt Nam ở trình độ rất thấp, lại tập trung xây dựng hoàn thiện quan hệ sản xuất ở trình độ cao, muốn dùng quan hệ sản xuất tiên tiến để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đó là nhận thức và hành động không đúng, nếu không nói là làm trái quy luật. Đại hội VI của Đảng đã nêu rõ: “Theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa phải có bước đi và hình thức thích hợp. Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” (trích ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 47, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.390). Đại hội VI chủ trương thực hiện nhất quán, lâu dài, chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả kinh tế tư bản tư nhân, cá thể, tiểu chủ, thừa nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân. Đó là sự điều chỉnh rất quan trọng về quan hệ sản xuất. Yếu tố 11

đi quá xa chính là tuyệt đối hóa và chỉ thừa nhận chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không thừa nhận sở hữu tư nhân trước đó. Trong sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay, Đảng lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế làm trung tâm. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Có rất nhiều quy luật, đặc trưng, đặc điểm các mối quan hệ của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục được nhận thức và xử lý trong thực tế dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Quy luật và cũng là quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn là vấn đề cơ bản chỉ đạo trong khi đề ra các chính sách kinh tế. Đảng và Nhà nước tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất theo đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đề ra từ Nghị quyết Trung ương 7 khóa VII (1994), và từ 1996, Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặt chiến lược phát triển khoa học và công nghệ, chiến lược giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu tại Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (1996). Lực lượng sản xuất đã phát...


Similar Free PDFs