TIỂU-LUẬN-TRIẾT - tiểu luận triết PDF

Title TIỂU-LUẬN-TRIẾT - tiểu luận triết
Course Business
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 16
File Size 291.4 KB
File Type PDF
Total Downloads 23
Total Views 467

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ======000======TIỂU LUẬN TRIẾT HỌCPHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ PHỔ BIỂNVÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮATĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘIHà Nội, 2021Họ và tên : Nguyễn Tiến Bách Lớp hành chính : Anh 06 – KTĐN – K MSV : 2011110035 Giảng v...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ ======000======

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ PHỔ BIỂN VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Họ và tên

: Nguyễn Tiến Bách

Lớp hành chính

: Anh 06 – KTĐN – K59

MSV

: 2011110035

Giảng viên hướng dẫn

: ThS. Nguyễn Thị Tùng Lâm

Hà Nội, 2021

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................3 PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................4 PHẦN 1. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến...............................................4 1. Khái quát về phép biện chứng........................................................................................4 2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến..................................................................................5

PHẦN 2. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội....................7 1. Tăng trưởng kinh tế........................................................................................................7 2. Công bằng xã hội............................................................................................................7 3. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội............................................8 4. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam..................................................11

PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................15 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................16

2

PHẦN MỞ ĐẦU Thế kỉ thứ 21 đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của loài người trên nhiều lĩnh vực, những phát minh, sáng chế, những bước ngoặt làm thay đổi toàn bộ thế giới. Kinh tế các nước liên tục đi lên, xã hội ngày càng giàu có về của cải vật chất, hàng loạt cơ hội được mở ra cho con người. Đến thời đại này, khi nhận thức đã tăng cao, khi các nhu cầu thiết yếu đã được đáp ứng đầy đủ, chúng ta bắt đầu quan tâm tới một vấn đề lớn hơn, cao hơn: chất lượng cuộc sống và sự văn minh của cộng đồng, của xã hội. Sau cả thiên niên kỉ, sau hàng loạt hình thức xã hội luôn tồn tại sự thống trị lẫn nhau giữa các giai cấp, giờ đây loài người đang hướng tới một hình ảnh lí tưởng: một xã hội dân chủ, văn minh, bình đẳng. Sự phát triển kinh tế đã đảm bảo những nhu cầu vật chất của con người, để con người tiến tới xây dựng những giá trị cao đẹp hơn. Tuy nhiên, một thực trạng khác có thể nhận thấy rõ là cùng với sự phát triển kinh tế toàn cầu, thì khoảng cách giàu nghèo giữa các cá nhân trong xã hội cũng ngày một tăng cao. Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc năm 1996, nhóm 20% người giàu nhất đã chiếm đến 85% thu nhập chung của thế giới. Vậy sự thực này có thể ảnh hưởng thế nào tới việc thực hiện hình ảnh xã hội lí tưởng kia của loài người, trong hiện tại và cả trong tương lai? Sự bất bình đẳng về thu nhập có quan hệ thế nào với bình đẳng trong xã hội nói chung? Do mong muốn có cái nhìn bao quát hơn về vấn đề và tìm ra câu trả lời cho câuhỏi này, đồng thời cũng nhận thấy đây là vấn đề mang nhiều giá trị cả về lí luận lẫn thực tiễn, em lựa chọn tìm hiểu đề tài “Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội” với mục đích dựa vào cơ sở lí luận biện chứng để tìm ra bản chất mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, cũng như có được những giải pháp tích cực cho vấn đề này trong thực tiễn.

3

PHẦN NỘI DUNG PHẦN 1. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến 1. Khái quát về phép biện chứng 1.1.1. Khái niệm Phép biện chứng là học thuyết khái quát về biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, các quy luật, các phạm trù để từ đó hình thành nên hệ thống nguyên tắc phương pháp luận nhằm chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Phép biện chứng thuộc biện chứng chủ quan, tức là sự phản ánh biện chứng của thế giới vật chất vào trong đời sống ý thức của con người. Khi xem xét sự vật, hiện tượng phép biện chứng đặt nó vào trạng thái vận động, biến đổi, phát triển và trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng khác. 1.1.2. Phép biện chứng duy vật Phép biện chứng đã phát triển qua ba giai đoạn, ba hình thức cơ bản, trong đó giai đoạn phát triển cao nhất trong lịch sử triết học là sáng tạp nên phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Leenin. Phép biện chứng duy vật được xem là khoa học nhất, là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị, sâu sắc nhất và không phiến diện. Trên sơ sở khái quát các mối liên hệ phổ biển và sự phát tiển , những quy luật phổ biến của các quá tringh vận động phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tỏng tự nhiên, xã hội, tư duy, phép biện chứng duy vật cung cấp nhwunxg nguyên tắc, phương pháp luận chung nhất cho quá trinh nhận thức và cải tạo thế giới. Ph.Awnggen đã định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” để nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.

4

2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến 1.2.1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái reeng, bản chất và hiện tượng… Như vậy giữa các sự vật hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng thời cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thông nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa đạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. 1.2.2. Tính chất các mối liên hệ Tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng, phong phú là những tinhd chất cơ bản của các mối quan hệ. -

Tính khách quan của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan, Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật hiện tượng (hoạc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động nhận thức của mình.

-

Tính phổ biến của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào tồn tạo tuyệt đối biệt lập với các sự vật hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng không có bất cứ sưj vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một sự tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với các hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau. 5

-

Tính đa dạng, phong phú cả mối liên hệ: được thể hiện ở chỗ: các sự vật hiện tương hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của nó. Mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của các sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định, trong những điều kiện nhất định. Đó là các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của sự vật, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, trực tiếp và gián tiếp…

1.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận -

Trong hoạt động nhận thức và nhận thức cần phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đỏi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại của sự vật đó và các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thwusc đúng về sự vật và xỷ lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy , quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức thực tiễn. Lenin cho rằng: “Muốn thực sự hiển được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó.”

-

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể. Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn.

PHẦN 2. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội 1. Tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế học, phản ánh sự gia tăng về mặt lượng của một nền kinh tế. Nó được đo bằng nhiều chỉ số khác nhau, như tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay thu nhập bình quân đầu 6

người trên năm,… Tốc độ tăng trưởng kinh tế là mức (%) được tăng theo sản lượng của GNP, GDP của năm nay so với năm trước hoặc giai đoạn này với giai đoạn trước. Với nghĩa như vậy, tăng trưởng kinh tế là mục tiêu theo đuổi của mọi quốc gia, mọi nền kinh tế trước yêu cầu tồn tại và phát triển. 2. Công bằng xã hội

Nếu như khái niệm tăng trưởng kinh tế được định nghĩa và thừa nhận rộng rãi, phổ biến; có cơ sở và có thể được định lượng bằng những chỉ số cụ thể, thì khái niệm công bằng xã hội, cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thực sự mang tính chuẩn mực và hoàn toàn thống nhất. Tùy theo quan điểm và cách nhìn nhận của mỗi cá nhân hoặc tổ chức mà khái niệm công bằng xã hội được hiểu và diễn giải theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ, trong kinh tế học, có hai khái niệm khác nhau về bình đẳng/công bằng: công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc. Công bằng theo chiều ngang nghĩa là đối xử như nhau với những người có mức đóng góp như nhau. Công bằng theo chiều dọc nghĩa là đối xử khác nhau với những người có điều kiện sống khác nhau hoặc những người có sự khác biệt mang tính bẩm sinh. Công bằng theo chiều ngang có thể được thực hiện bởi cơ chế thị trường, trong khi công bằng theo chiều dọc cần có sự tác động và điều hướng từ chính phủ. Theo lý thuyết, công bằng thực sự và toàn diện có thể có được khi kết hợp cả hai khái niệm công bằng trên. Ngoài quan điểm kinh tế học, có một số quan điểm khác về việc thế nào là công bằng xã hội. Ngân hàng Thế giới định nghĩa công bằng xã hội là “công bằng trongnhững cơ hội cho mọi người”. Quan điểm khác nhận định công bằng xã hội “là các giá trị định hướng cho quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng về vật chất và tinh thần”. Sự đa dạng các quan điểm khi nhận định về công bằng xã hội thể hiện đây là một khái niệm rất rộng, bao gồm trong nó cả các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Nhìn một cách tổng quan, có thể hiểu công bằng xã hội theo nghĩa chung nhất như sau: đó là sự ngang bằng nhau trong mối quan hệ giữa người với người, dựa trên nguyên tắc thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Từng thành viên trong xã hội gắn bó với cộng đồng xã hội trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh 7

tế, văn hóa, xã hội, thông qua sự cống hiến bằng khả năng trí tuệ, sức lực của mình cho sự phát triển xã hội và được xã hội bù đắp trở lại một cách tương xứng. Với cách hiểu công bằng xã hội như vậy, việc xác định mức độ thực hiện công bằng xã hội chỉ có thể mang tính tương đối, không thể đo lường một cách tuyệt đối chính xác. Trên thế giới, mức độ này thường được đánh giá trước hết qua chỉ số thu nhập. Ngoài ra, một số loại chỉ số khác cũng được sử dụng như chỉ số thể hiện mức độ thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người, mức tối thiểu về dinh dưỡng, sức khỏe, mức sống, nhà ở và các điều kiện khác đảm bảo sự phát triển cá nhân. Năm 1990, Chỉ số phát triển con người (HDI – Human Development Index) được hai nhà kinh tế Mahbub ul Haq (Pakistan) và Amartya Sen (Ấn Độ) giới thiệu. Chỉ số này thường được tính toán trên toàn cầu bởi UNDP (United Nations Development Programme - Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc), sử dụng để đánh giá sự phát triển của một đất nước. Đây là chỉ số được tính toán dựa trên 3 tiêu chí bao quát, thể hiện được những yếu tố quan trọng với phát triển con người: tuổi thọ, trí tuệ và mức sống. Qua đây, có thể thấy công bằng xã hội không chỉ phản ánh các quan hệ chính trị - xã hội và mức độ nhân văn của xã hội, mà còn phần nào phản ánh cả xu hướng ổn định, bền vững của một nền kinh tế cũng như trật tự xã hội. 3. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội Nội dung phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến đã chỉ ra rằng giữa các sự vật, hiện tượng cũng như giữa các mặt của cùng một sự vật, hiện tượng luôn tồn tại các mối liên hệ - nghĩa là có sự liên hệ qua lại, phụ thuộc, tác động và chuyển hóa lẫn nhau. Nguyên lí này chính xác khi ta vận dụng để xem xét và nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai khái niệm, hiện tượng tồn tại độc lập với nhau nhưng lại có mối liên hệ biện chứng rất chặt chẽ. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự gia tăng, hay nói khái quát hơn là sự thay đổi về mặt lượng của nền kinh tế. Khi mặt lượng thay đổi tới một giới hạn nhất định (điểm nút), cùng với các điều kiện nhất định về mặt lịch sử, xã hội…, tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất: nền kinh tế sẽ chứng kiến một bước nhảy, có sự phát triển về kinh tế. Sự phát triển kinh tế

8

được xem là tiền đề, là cơ sở, là điều kiện không thể thiếu dẫn đến sự phát triển chung của con người và xã hội, trong đó có khía cạnh công bằng và bình đẳng xã hội. Hơn nữa, mặc dù khái niệm công bằng xã hội được định nghĩa theo nhiều cách và nhìn nhận trên nhiều quan điểm khác nhau, nhưng như đã nói ở trên, sự đa dạng này đã thể hiện rằng công bằng xã hội là một khái niệm mang nội hàm rất rộng. Bản thân nó đã bao hàm trong mình các yếu tố thuộc hầu hết lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v; nghĩa là bản thân khái niệm công bằng xã hội cũng đã tích hợp ở đó vấn đề tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là yếu tố không thể không xét đến khi ta xem xét và nghiên cứu sự công bằng xã hội. Ngược lại, công bằng xã hội cũng có sự ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế. Công bằng xã hội được đảm bảo và thực hiện một cách đúng đắn sẽ nâng cao đời sống con người, nâng cao chất lượng sống cũng như tiêu chuẩn, trình độ của xã hội, góp phần xây dựng một cộng đồng và môi trường văn minh, tiến bộ, tạo ra ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng. Công bằng xã hội không được đảm bảo, sự bất công và bất bình đẳng còn tồn tại nhức nhối trong xã hội sẽ đem đến tác động xấu cho nền kinh tế, có thể dẫn đến kìm hãm tăng trưởng kinh tế hoặc tăng trưởng theo hướng thiếu lành mạnh. Có thể nói, công bằng xã hội là một trong những nhân tố then chốt và thiết yếu để đánh giá xem sự tăng trưởng kinh tế nói riêng và phát triển kinh tế nói chung có thực sự bền vững và lâu dài hay không. Tăng trưởng kinh tế là một hiện tượng, phạm trù do con người tác động và chi phối, đồng thời cũng tác động ngược trở lại tới con người. Tương tự như vậy, mức độ công bằng xã hội được thực hiện cũng phụ thuộc vào con người, và chính nó cũng sẽ ảnh hưởng tới đời sống của từng cá nhân trong xã hội. Với nhân tố chung là con người, hai khái niệm tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội thực sự có mối liên hệ biệnchứng rất chặt chẽ với nhau. Cụ thể hơn, khi xem xét và nghiên cứu về mối quan hệ và sự tác động, phụthuộc, ảnh hưởng thực tiễn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, có rất nhiều quan điểm, giả thuyết, góc nhìn khác nhau, đưa ra những đánh giá và nhận định đa dạng, phong phú. Một số cho rằng tăng trưởng kinh tế dẫn đến bất bình đẳng, nghĩa 9

là tăng trưởng kinh tế đối nghịch với công bằng xã hội và đây là hai mặt đối lập, mâu thuẫn, đấu tranh lẫn nhau. Theo đó, tăng trưởng kinh tế được cho rằng được đảm bảo bằng sự bất bình đẳng trong phân phối vật chất (một trong những khía cạnh đánh giá công bằng xã hội), và việc kinh tế tiếp tục tăng trưởng sẽ chỉ gia tăng thêm sự bất bình đẳng này. Tầng lớp thu nhập cao là giai cấp có khả năng tích lũy vật chất lớn nhất và đây cũng là nguồn gốc chủ yếu dẫn đến tăng trưởng, do đó bất kì sự phân phối nào làm giảm sự tập trung của cải này đều ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng kinh tế. Lập luận này có cơ sở thực tiễn lịch sử từ sự hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản: quá trình tích tụ và tập trung tư bản, cộng với sự bần cùng, vô sản hóa một giai cấp trong xã hội đã tạo động lực lớn. Mác cũng giải thích tương tự về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, tuy nhiên ông chỉ ra rằng quá trình này đã dẫn đến sự bất bình đẳng quá lớn trong xã hội,trở thành lực cản cho sự vận động và phát triển tiếp theo. Ở đây, có thể thấy mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là mối liên hệ phổ biến giữa hai mặt đối lập. Mặt khác, một số lại đưa ra quan điểm tăng trưởng kinh tế đi liền với công bằng xã hội. Khi xem xét sự phát triển kinh tế - xã hội qua những giai đoạn lịch sử, người ta nhận thấy những hạn chế của việc chú ý quá mức đến riêng mình sự tăng trưởng hoặc công bằng, hay nói cách khác là những hạn chế khi chỉ tập trung vào một mặt, một khía cạnh, trong khi đây vốn là hai yếu tố có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Để đảm bảo được cả hai yếu tố, hai mô hình hành động được đưa ra bao gồm giải quyết các nhu cầu cơ bản của con người hoặc tái phân phối cùng với tăng trưởng. Quan điểm tăng trưởng đi liền với công bằng là lí luận được đưa ra dựa trên cơ sở một giả thuyết quan trọng: công bằng xã hội không đối lập với tăng trưởng kinh tế,ngược lại còn là một nhân tố góp phần thúc đẩy nó. Năm 1968, nhà kinh tế học người Thụy Điển Gunnar Myrdal lần đầu tiên khẳng định rằng bất bình đẳng ở mức thấp có thể kích thích tăng trưởng kinh tế. Hartmut Elsenhans (nhà chính trị học và khoa học người Đức) lập luận khá đầy đủ về tác động của công bằng xã hội đối với tăng trưởng. Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng đưa ra các công trình nghiên cứu minh chứng cho giả thuyết trên. Qua đây, có thể thấy mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội khá phức tạp, cần rất nhiều sự nghiên cứu, vận dụng cả lí luận lẫn thực 10

tiễn để có thể có được cái nhìn tổng quan nhất, và luôn cần đảm bảo cả quan điểm toàn diện lẫn quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét vấn đề. Mỗi quan điểm, giả thuyết nói trên đều có những cơ sở và mức độ đúng đắn nhất định, dù chưa thể hoàn toàn công nhận nhưng ta cũng không thể phủ nhận quan điểm, giả thuyết nào mà đều cần học hỏi, kế thừa và phát huy những điểm mạnh của chúng. Nhìn chung lại, tất cả đều chứng minh cho ta thấy mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai mặt của một quá trình phát triển biện chứng, vừa mâu thuẫn, vừa tác động lẫn nhau, liên hệ chặt chẽ, cái này là tiền đề cho cái kia, cùng vận động và phát triển không ngừng theo chiều hướng đi lên. 4. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam Tại Việt Nam, mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đóng vai trò quan trọng, cốt yếu cho sự phát triển đất nước, được Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng. Trong những năm đổi mới, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đã thể hiện quan điểm mới, sâu sắc và toàn diện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Điều này được phản ánh một cách nhất quán trong các văn kiện lớn của Đảng cũng như chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thời kì đổi mới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII khẳng định rõ: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong t...


Similar Free PDFs