Bài Tập Lớn Môn Kinh Tế Chính Trị Mác-Lênin - Sản Xuất Hàng Hóa PDF

Title Bài Tập Lớn Môn Kinh Tế Chính Trị Mác-Lênin - Sản Xuất Hàng Hóa
Author N- TN
Course Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin
Institution Đại học Kinh tế Quốc dân
Pages 18
File Size 250.9 KB
File Type PDF
Total Downloads 115
Total Views 196

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN--------------------------------BÀI TẬP LỚNHỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNINĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về sản xuất hàng hóavà liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.Họ và tên sinh viên:Mã sinh viên:Lớp: Kinh Tế Chính Trị Mác - Lênin (220)Hà Nội - 05/MỤC LỤ...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN --------------------------------

BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN ĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về sản xuất hàng hóa và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.

Họ và tên sinh viên: Mã sinh viên: Lớp: Kinh Tế Chính Trị Mác - Lênin (220)

Hà Nội - 05/2021

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………….…..………..2 I. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ SẢN

XUẤT

HÀNG

HÓA…………………………………………………..............3 1. Sản xuất hàng hóa……………………………….………………………..… 3 a. Khái …..3

niệm…………………………..………………………………...

b. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa………………….……..…….….4 c. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa………………………………..……….5 d. Ưu thế của sản xuất hàng hóa………………………….....................…… 5 2. Nền kinh tế sản xuất hàng hóa……………………………………………… 6 a. niệm………………………………………………………………...6

Khái

b. Ưu điểm………………………………………………………………….6 c. Nhược điểm……………………………………………………………...7 II. THỰC TRẠNG NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM………………..8 1. Sơ lược về lịch sử phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam……..……..8 2. Đặc điểm nền sản xuất hàng hóa Việt Nam………………………………… 9 III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM………… 12

KẾT 14

LUẬN…………………………………………………………………………

TÀI LIỆU KHẢO…………………………………………………………..15

THAM

LỜI NÓI ĐẦU Sau một thời gian dài toàn cầu hóa và kết nối thương mại quốc tế, con virus nhỏ bé SARS-CoV-2 đang khiến nhiều quốc gia giật mình nhìn lại những mối đe dọa đáng sợ rằng nếu một ngày bỗng nhiên tất cả tàu bè, xe container, nhà xưởng, quán xá... phải dừng lại, ở quy mô thế giới. Đại dịch cũng làm dấy lên những lời cảnh báo với các nền kinh tế quá mở, và cả những kêu gọi trở về với thời “tự lực tự cường”, một giấc mộng đã không ít lần tan vỡ của nhiều quốc gia cách đây chưa lâu... Kinh tế tự cung tự cấp, một khái niệm quen thuộc và gợi lại nhiều cảm xúc có phần tiêu cực ở Việt Nam, đang mang một ý nghĩa mới trong thời đại dịch. Trong quá khứ, rất nhiều nước theo đuổi giấc mộng tự cường tuyệt đối. Lấy ví dụ, đế quốc Anh được xây dựng trên nền tảng lý tưởng là “sự cô lập vinh quang”, theo đó nước Anh không cần liên minh với ai mà vẫn đảm bảo được an ninh và các nhu cầu kinh tế. Ở phương Đông, đó là những thời kỳ “bế quan tỏa cảng” kéo dài ở Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, và cả Việt Nam. Rồi Thế chiến II nổ ra một phần quan trọng cũng vì sự xung đột của các đế quốc muốn tự cường. Ở Đức là giấc mộng tự chủ hoàn toàn về kinh tế của Adolf Hitler và chính quyền Quốc xã. Ở Đông Á, đế quốc Nhật Bản xâm lược Trung Hoa, rồi Đông Nam Á, gây chiến với Hoa Kỳ, một phần quan trọng là vì cần đảm bảo các nguồn tài nguyên thiết yếu chỉ có ở vùng nhiệt đới như cao su, trong một nền kinh tế đóng. Sau Thế chiến II, hai quốc gia lớn nhất trong phe xã hội chủ nghĩa, Liên Xô và Trung Quốc, về cơ bản cũng là những nền kinh tế đóng cửa gần như hoàn toàn với bên ngoài. Một thế giới bị ngăn cách cũng là một thế giới nghèo khổ hơn, và nguy cơ không chỉ là các tổn thất kinh tế. Như thời trước Thế chiến II đã chứng minh, một thế giới bị ngăn cách cũng là một thế giới đầy nghi kỵ và dễ xung đột hơn. Không có thương mại, các nguồn lực quá khó có được sẽ trở thành những mồi lửa dễ cháy cho xung đột. Nếu lịch sử có nói lên điều gì, thì đó là nỗ lực theo đuổi một nền kinh tế tự cung tự cấp tuyệt đối cho tới giờ đã không dẫn tới một kết quả nào có hậu. Việt Nam của chúng ta cũng là một minh chứng rất rõ ràng. Trước năm 1986, Việt Nam áp dụng nền kinh tế tự cung tự cấp. Với nền kinh tế này, một phần nào đó nước ta cũng đã có những bước phát triển nhất định. Tuy nhiên, sau đó với tình hình định hướng chung của Việt Nam, nó đã không còn phù hợp và bộc lộ các mặt yếu kém, kìm hãm sự phát triển đặc biệt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lúc này các cơ sở sản xuất, thực hiện theo kế hoạch của Nhà Nước. Năng suất lao động bị giảm sút, nền kinh tế Việt Nam đứng trước nguy cơ suy thoái. Trong điều kiện đó, chúng ta chưa đánh giá đúng tình hình thực tế, thực hiện bao cấp với một loạt những bước đi sai dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội thêm trầm trọng. Nhận thấy tình hình cấp thiết, tại đại hội VI, Đảng và Nhà nước ta đã có quyết định quan trọng trong đổi mới nền kinh tế, thay thế nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bằng nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Và từ đó, nền sản xuất hàng hóa đã trở thành nền tảng, động lực thúc đẩy phát triển bền vững đất nước. Trong thời gian qua, nhiều văn bản quan trọng về định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển nền sản xuất hàng hóa đã được ban hành. Đảng và Nhà nước đã sớm xác định vai trò then chốt vô cùng quan trọng của sản xuất hàng hóa trong sự nghiệp phát triển kinh tế nước nhà. Xuất phát từ những thực tiễn trên, em đã lựa chọn đề tài: “ Lý luận của CN Mác Lênin về sản xuất hàng hóa và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam” cho bài tiểu luận của mình. Cảm ơn cô đã dành thời gian

2

đọc bài. Mới là lần thứ hai làm bài tập lớn, em không thể tránh khỏi những sai sót, em mong sẽ nhận được sự góp ý của cô để em có thể rút kinh nghiệm.

3

I. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA 1. Sản xuất hàng hóa a. Khái niệm: Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó, những người sản xuất ra sản phẩm không nhằm phục vụ mục đích nhu cầu tiêu dùng của chính mình mà để trao đổi, mua bán. Trong khái niệm này, ta có hai nội dung cần phải làm rõ: Thứ nhất, nếu nói rằng sản xuất hàng hóa là một kiểu tổ chức hoạt động kinh tế. Vậy có những kiểu tổ chức hoạt động kinh tế nào? Và kiểu tổ chức hoạt động sản xuất hàng hóa này nó khác gì so với những kiểu tổ chức hoạt động kinh tế còn lại? Trên thực tế, lịch sử loài người đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức hoạt động kinh tế cơ bản. Đầu tiên là sản xuất tự cấp tự túc, thứ hai là chính là sản xuất hàng hóa. Ngoài ra, đã từng xuất hiện mầm mống của một kiểu tổ chức kinh tế thứ ba, đó là kiểu tổ chức kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Nó xuất hiện ở Liên Xô, Đông Âu, Việt Nam và một số quốc gia đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhưng do lực lượng sản xuất chưa đạt tới trình độ thích ứng với kiểu tổ chức kinh tế này, cho nên vừa mới xuất hiện được một thời gian ngắn thì đã không tồn tại được. Các quốc gia này lại phải chuyển về sử dụng kiểu tổ chức kinh tế sản xuất hàng hóa để tiếp tục phát triển lực lượng sản xuất của mình. Vậy hai kiểu tổ chức kinh tế là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa có gì khác nhau? Trong sản xuất tự cấp tự túc mỗi người sản xuất tồn tại độc lập với nhau. Họ tự sản xuất, tự tiêu dùng. Muốn có sản phẩm gì để thỏa mãn những nhu cầu của cuộc sống họ phải tìm cách tự mình tạo ra nó và tự sử dụng nó để thỏa mãn những nhu cầu này. Ví dụ muốn có lương thực thì họ phải tìm cách hái lượm, gieo trồng. Muốn có thực phẩm phải tìm cách săn bắt, chăn nuôi. Muốn có quần áo để mặc phải tìm cách trồng dâu, nuôi tằm, se tơ, dệt vải, may quần áo. Muốn có nhà ở, phải tìm những hang đá, hốc cây, gây dựng nên những túp lều đơn giản. Tất cả mọi việc đó là tự làm, tự sử dụng, không có quan hệ trao đổi với nhau. Sang kiểu tổ chức kinh tế sản xuất hàng hóa, giữa những người sản xuất không biệt lập, không độc lập nữa mà họ xuất hiện quan hệ mua bán trao đổi sản phẩm trên thị trường. Đây chính là ý thứ hai mà khái niệm chỉ ra, sản xuất ra sản phẩm để đưa ra trao đổi mua bán trên thị trường.

4

b. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa Sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội khi có những điều kiện nhất định. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa phụ thuộc vào hai điều kiện cơ bản sau: Điều kiện thứ nhất là phân công lao động xã hội. Khái niệm: Phân công lao động xã hội là sự phân chia trong xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. khi đó, mỗi người sản xuất một hoặc một số sản phẩm nhất định. Trong khi nhu cầu của họ lại đòi hỏi đòi hỏi nhiều loại sản phẩm. Để thỏa mãn nhu cầu của mình tất yếu sản xuất và trao đổi sản phẩm với nhau. Xã hội sẽ chia ra làm rất nhiều ngành nghề khác nhau có những người chuyên trồng lúa, có những người chuyên nuôi cá, có những người chuyên may mặc quần áo… và họ làm việc với mức độ chuyên môn cao cho nên năng suất cũng cao hơn. Khi mà xã hội đã phân chia ra thành những ngành nghề độc lập với nhau như vậy thì những người sản xuất này không thể tồn tại độc lập hoặc biệt lập như trước được nữa, mà họ phụ thuộc vào nhau. Tại sao vậy? Tại vì khi trồng lúa thì chỉ tạo ra thóc lúa mà thôi, nhưng không thể ăn mỗi gạo mỗi cơm không, mà phải có thịt, cá, rau... Vậy là phải có quan hệ trao đổi sản phẩm với người chuyên nuôi lợn, chuyên nuôi cá, trồng rau… Ăn đầy đủ rồi thì cũng phải lo cái mặc, nếu chỉ có chuyên trồng trọt chăn nuôi thì phải trao đổi sản phẩm với những người dệt vải may quần áo và còn rất nhiều sản phẩm thiết yếu trong cuộc sống nữa như củi đun, muối ăn, các phương tiện đi lại… Chính sự phân công lao động xã hội, mỗi người mỗi nghề đó làm cho họ phụ thuộc vào nhau vì nhu cầu của cuộc sống cần rất nhiều loại sản phẩm thế mà mỗi người lại chỉ tạo ra một hoặc một số sản phẩm nhất định. Phân công lao động rồi chưa đủ. Thực tế, ở giai đoạn cộng sản nguyên thủy đã có phân công lao động ở một mức độ nhất định nhưng chưa xuất hiện trao đổi sản phẩm. Trong những thị tộc bộ lạc thì việc lao dộng đã được chia ra: những người trai tráng khỏe mạnh đảm đương việc săn bắt để bảo đảm nguồn thực phẩm cho các thành viên, những người phụ nữ chân yếu tay mềm nhưng lại khéo tay thì đảm nhiệm việc hái lượm rồi trồng trọt, trồng rau nuôi tằm, se tơ dệt vải may quần áo, những người già khi mà không đủ sức khỏe để đảm đương những việc đó nữa thì thường giữ vai trò là trông nhà, giữ trẻ… Đã có sự phân chia nhất định, mỗi người mỗi việc nhưng họ lại không có quan hệ trao đổi sản phẩm với nhau, bởi vì sản phẩm của một thanh viên tạo ra cũng được coi là của cộng đồng, một con thú bắt về được chia cho cả bộ tộc, các sản phẩm khác cũng vậy đều chia đều hết, không cần phải trao đổi. 5

Phải có điều kiện thứ hai thì mới nảy sinh kiểu tổ chức kinh tế này đó là: sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản suất. Sự tách biệt này chính là nói đến quyền sở hữu của người sản xuất đối với sản phẩm do họ tạo ra. Sản phẩm do người nào tạo ra người đó có quyền sở hữu, có quyền sử dụng, có quyền khai thác và những người khác không thể tự do chia chác sản phẩm này được. Quyền sở hữu sản phẩm độc lập của từng chủ thể sản xuất này sẽ dẫn đến hiện tượng những người sản xuất tồn tại độc lập với nhau trên thị trường. Trên thị trường họ sẽ không tự do lấy sản phẩm của nhau được, họ muốn lấy sản phẩm của người khác thì phải có một sản phẩm tương đương của mình để trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Điều kiện thứ hai kết hợp với điều kiện thứ nhất làm nảy sinh quan hệ trao đổi sản phẩm giữa người sản xuất này với người sản xuất khác. Mọi người sản xuất phải lấy sản phẩm thừa của mình ra để trao đổi lấy rất nhiều sản phẩm khác do những người sản xuất khác tạo ra. Khi quan hệ trao đổi này được diễn ra một cách phổ biến kiểu tổ chức kinh tế sản xuất hàng hóa được xác lập. Như vậy: phân công lao động xã hội làm người sản xuất phụ thuộc vào nhau còn chế độ tư hữu lại chia rẽ làm họ độc lập với nhau. Đây là một mâu thuẫn và mẫu thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. Chính vì thế, sản xuất hàng hóa bắt nguồn từ yêu cầu của cuộc sống. c. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa Sản xuất hàng hóa có hai đặc trưng cơ bản sau: Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế đối lập với sản xuất tự cung tự cấp trong thời kỳ đầu của lịch sử loài người. Cụ thể, trong sản xuất hàng hóa sản phẩm được tạo ra để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán. Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tỉnh xã hội. Tính chất tư nhân thể hiện ở đặc tính của sản phẩm được quyết định bởi cá nhân người làm ra nó hoặc người trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất trên danh nghĩa. Tính chất xã hội thể hiện qua việc sản phẩm tạo ra đáp ứng cho nhu cầu của những người khác trong xã hội. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa. d. Ưu thế của sản xuất hàng hóa Tác dụng vào sức sản xuất của xã hội, mở đường cho lực lượng sản xuất không ngừng phát triển: trong sản xuất tự cấp tự túc mỗi người tự sản tự tiêu, cho nên chính

6

nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của họ hạn chế sức sản xuất, dù còn nhiều đến mấy nhưng chỉ làm đủ ăn đủ dùng. Như vậy nhu cầu hạn hẹp của từng chủ thể kinh tế hạn chế sức sản xuất mặc dù nguồn lực vẫn còn. Vì không trao đổi nên khi có công cụ gì trong tay chỉ lựa chọn được một số ngành nghề nhất định. Nhưng trong kiểu tổ chức sản xuất hàng hóa chỉ cần có ý tưởng sản xuất có sức lao động thì tất cả những nguồn lực khác có thể tìm kiếm hết trên thị trường, không giới hạn nguồn lực để đổ vào sản xuất, cả nhu cầu tiêu thụ sản phẩm cả nguồn lực đầu vào sản xuất đều không bị giới hạn, sản xuất của xã hội được giải phóng dẫn tới lực lượng sản xuất không ngừng phát triển. Đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất: sản xuất hàng hóa phá vỡ tính tự cung tự cấp, bảo thủ, lạc hậu của nền sản xuất tự cấp tự túc. Khai thác được lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở, từng vùng, từng địa phương, kích thích sự phát triển về kinh tế của cả quốc gia. Đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội: xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng gia tăng cả về lượng và chất, sản xuất hàng hóa giúp cho họ có nhiều sự lựa chọn hơn để đáp ứng nhu cầu của mình. Góp phần cải thiện đời sống xã hội đồng thời làm tăng khả năng lao động của xã hội.

2. Nền kinh tế sản xuất hàng hóa a. Khái niệm Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế có sự phân công lao động và trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa người này với người khác. Nó trái với nền kinh tế tự cung tự cấp trong đó người ta tự sản xuất sản phẩm và tự tiêu dùng. Ở giai đoạn sơ khai, trao đổi hàng hóa mang hình thức trực tiếp, gọi là hàng đổi hàng. Khi tiền xuất hiện, các cá nhân có thể sử dụng tiền làm phương tiện trao đổi. Lúc này, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là kinh tế tiền tệ. Khi cơ chế trao đổi dựa trên giá cả thị trường, kinh tế hàng hóa cũng là kinh tế thị trường. Khi cơ chế trao đổi dựa trên những sắp xếp quy hoạch từ một trung tâm, kinh tế hàng hóa đồng thời là kinh tế kế hoạch. Kinh tế hàng hóa là một giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử phát triển của xã hội theo trình tự: kinh tế tự nhiên- kinh tế hàng hóa- kinh tế sản phẩm. Trong bất kì chế độ xã hội nào, sự tồn tại hình thái giá trị và thị trường luôn là đặc trưng chung của kinh tế hàng hóa. b. Ưu điểm So với kinh tế tự nhiên, một loại hình kinh tế còn in đậm dấu vết ở nước ta, kinh tế hàng hóa có những ưu thế sau:

7

Một là, thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất càng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ. Hai là, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, buộc người sản xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng và hình thức mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. Ba là, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Mở rộng giao lưu kinh tế trong nước và hội nhập thế giới. Có tác dụng lớn trong việc tuyển chọn doanh nghiệp và cá nhân quản lý giỏi. Bốn là, giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất khép kín đã từng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cần thiết cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao dưới hình thức quan hệ hàng hóa, tiền tệ. c. Nhược điểm Bên cạnh những ưu điểm, kinh tế hàng hóa cũng chứa đựng những khuyết tạt của nó. Thị trường chứa đựng nhiều yếu tố tự phát, bất ổn dẫn đến mất cân đôi. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu: Một là, đặt lợi nhuận lên hàng đầu, có lãi thì làm nên không giải quyết được cái gọi là “hàng hóa công cộng”. Hai là, các vấn đề công bằng xã hội không được bảo đảm, sự phân hóa xã hội cao, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng. Ba là, suy đồi đạo đức, muốn làm giàu bằng mọi giá, không còn lương tâm mà làm hàng giả, kém chất lượng. Bên cạnh đó, môi trường sống con người cũng bị hủy hoại trầm trọng. Do tính tự phát vốn có, kinh tế hàng hóa có thể mang lại không chỉ tiến bộ mà còn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần thiết phải có sự can thiệp, quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Nhờ đó sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường ổn định, tối đa hóa hiệu quả kinh tế, đảm bảo định hướng chính trị của sự phát triển nền kinh tế, sữa chữa khắc phục những khuyết điểm vốn có, tạo ra công cụ quan trọng điều tiết thị trường. Bằng cách đó, Nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự phát, đồng thời kích thích đối với sản xuất thông qua trao đổi hàng hóa dưới hình thức thương mại.

8

II. THỰC TRẠNG NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM 1. Sơ lược về lịch sử phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam Từ nền sản xuất hàng hóa giản đơn thời phong kiến tới nền kinh tế hàng hóa sau này, nền sản xuất hàng hóa của nước ta đã không ngừng biến đổi và phát triển. Thời kì phong kiến, trình độ lao động, năng suất lao động nước ta chưa cao, chính sách bế quan ở một số triều đại kìm hãm sự lưu thông hàng hóa. Sở hữu về tư liệu lao động nằm trong tay một số ít người ở tầng lớp trên. Tóm lại, ở thời kì này, nền sản xuất hàng hóa ở nước ta mới chỉ xuất hiện, chưa phát triển. Trong thời kì bao cấp trước đổi mới, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là nền kinh tế kế hoạch. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp kìm hãm sự phá triển của nền sản xuất hàng hóa. Biến hình thức tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực sản xuất, thủ tiêu cạnh tranh và lưu thông thị trường. Sự nhận thức sai lầm của nước ta thời kì này đã khiến nền kinh tế suy sụp, sức sản xuất hàng hóa xuống dốc không phanh. Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm, có năm còn giảm: Năm 1977 tăng 2,8%, năm 1978 tăng 2,3%, năm 1979 giảm 2%, năm 1980 giảm 1,4%, bình quân 1977-1980 chỉ tăng 0,4%/năm, thấp xa so với tốc độ tăng trưởng dân số, thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm 14%. Từ năm 1986, sau khi Đảng và Nhà nước đã kịp thời chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế sản xuất hàng hóa nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ. Thời kì này chia thành 3 giai đoạn:  Giai đoạn 1986 - 2000: Giai đoạn chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần được công nhận và bước đầu phát triển. Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, thời kì này nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại chưa giải quyết được. Điều này khiến nền kinh tế chậm phát triển chiều sâu.  Giai đoạn 2000 - 2007: đây là giai đoạn nền kinh tế hàng hóa ở nước ta phát triển mạnh mẽ. GDP liên tục tăng mạnh. Tốc độ tăng trưởng năm 2007 là 8,5%, cao nhất kể từ năm 1997 đến nay. Việc gia nhập WTO giúp Việt Nam phát triển nền kinh tế hàng hóa dễ dàng hơn khi có cơ hội mở rộng thị trường ra thế giới.

9

 Giai đoạn 2007 - nay: kinh tế Việt Nam có dấu hiệu chững lại. Tăng trưởng GDP giảm tốc với mức tăng trưởng bình quân là 6,2% trong khi mức tăng trưởng bình quân của CPI là 11,8%. Lạm phát kéo dài và mới được kiềm chế trong 2 năm 2012 và 2013. Các chính sách đưa ra dường như không đem lại hiệu quả mong muốn. 2. Đặc điểm nền sản xuất hàng hóa Việt Nam Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, lực lượng sản xuất chưa phát triển, lại bỏ qua giai đoạn TBCN nên nền sản xuất hàng hóa của nước ta không giống như nền sản xuất hà...


Similar Free PDFs