Bản sao của [Tieuluan Triethoc] Pham Thi Thanh Huyen Anh16Khoi5Kinhte K 54 2015 PDF

Title Bản sao của [Tieuluan Triethoc] Pham Thi Thanh Huyen Anh16Khoi5Kinhte K 54 2015
Author Minh Hiếu Chu
Course Kinh tế chính trị
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 18
File Size 309.8 KB
File Type PDF
Total Downloads 656
Total Views 757

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ-------------•------------TIỂU LUẬN TRIẾT HỌCQUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI VỚI TỰ NHIÊNVÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAYSinh viên thực hiện: Chu Minh HiếuMã SV: 2011110082Số thứ tự: 23Lớp: Pháp 1 Kinh tế Đối ngoại KGiảng viên hướng dẫn:Hà Nội, 3-M...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -------------•------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC QUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI VỚI TỰ NHIÊN VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Sinh viên thực hiện: Chu Minh Hiếu Mã SV: 2011110082 Số thứ tự: 23 Lớp: Pháp 1 Kinh tế Đối ngoại K59 Giảng viên hướng dẫn:

Hà Nội, 3-2021

MỤC LỤC Mục

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài: Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Khái niệm tự nhiên, xã hội. 1.1. Tự nhiên 1.2. Xã hội 2.

Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội. 2.1. Xã hội – Bộ phận đặc thù của tự nhiên.

2.2. Tự nhiên – Nền tảng của xã hội. 2.3. Tác động của xã hội đến tự nhiên. 2.4. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội 2.5. Con người với tự nhiên và xã hội II. VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 1. Thực trạng 2. Nguyên nhân 3. Hậu quả 4. Biện pháp khắc phục PHẦN KẾT TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

PHẦN MỞ ĐẦU *Lý do chọn đề tài: Thế giới của chúng ta sống hiện nay hình thành từ rất nhiều các mối quan hệ, cả những mối quan hệ vô cơ và những mối quan hệ hữu cơ vô cùng phức tạp. Trong đó, hai thành phần tự nhiên và xã hội cũng là một trong vô vàn những mối quan hệ ấy. Tự nhiên và xã hội có mối quan hệ biện chứng, cơ bản. Chúng chính là nền tảng cho sự tồn tại của thế giới ngày nay. Bởi lẽ thế giới hình thành không chỉ từ các yếu tố tự nhiên để hình thành các điều kiện sống tất yếu mà còn cần đến xã hội và quy luật của xã hội. Chính vì vậy, tìm hiểu về mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội là tìm hiểu điều căn bản nhất trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới. Bên cạnh đó, sự tác động của con người đối với tự nhiên và xã hội cũng là điểm đáng chú ý. Từ khi mới xuất hiện, con người đã được tạo hóa ban cho tự nhiên, nơi cung cấp môi trường sống và những điều kiện cơ bản nhất để tồn tại và phát triển. Qua quá trình tiến hóa, con người dần trở nên hoàn thiện hơn, ngày càng phát triển hơn. Điều này mang đến cả những tác động tích cực và tiêu cực cho tự nhiên. Cho đến gần đây, những tác động tiêu cực đã dần trở nên phổ biến. Phải kể đến đó là sự tàn phá môi trường sinh thái của con người. Và ở Việt Nam, đây là vấn đề gây nhức nhối và vô cùng cấp thiết, đáng báo động.

*Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Nhằm nêu lại quan điểm Triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin về “Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam”. Bên cạnh đó hy vọng làm thay đổi nhận thức xã hội nhằm tạo ta những thay đổi tích cực trong hành động của mỗi cá nhân, tạo thuận lợi cho việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Xem xét những yếu tố tác động đến môi trường, làm rõ mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, bàn về tác động qua lại giữa chúng, tìm hiểu về thực trạng, nguyên nhân, hậu quả ô nhiễm môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời đưa ra những biện pháp nhằm khắc phục, hạn chế tác động xấu với môi trường.

*Đối tượng nghiên cứu: 2

Bài tiểu luận tập tìm hiểu tổng quan về tự nhiên, xã hội, mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, sự tác động giữa tự nhiên và xã hội với con người. Qua đó, vận dụng vào để nghiên cứu vấn đề môi trường ở Việt Nam hiện nay, rút ra bài học cho bản thân và đưa ra phương hướng để giải quyết vấn đề.

PHẦN NỘI DUNG I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Khái niệm tự nhiên, xã hội. 1.1.

Tự nhiên

Tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Nó là một trong những yếu tố cơ bản và cần thiết nhất cho sự sống, là điều kiện tất yếu và thường xuyên trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội. Tự nhiên cung cấp cho con người nơi cư trú, cung cấp các điều kiện sống cần thiết như thức ăn, nước, ánh sáng, không khí,... Đặc biệt, tự nhiên chứa đựng những nguyên vật liệu giúp con người tiến hành và duy trì hoạt động sản xuất nhằm duy trì sự sống và phát triển mọi vật chất, tăng cường ý thức, vốn hiểu biết cho con người. Đặc biệt, con người và xã hội loài người là bộ phận đặc thù của tự nhiên. Nguồn gốc của con người là từ tự nhiên, bộ óc con người là sản phẩm cao nhất của vật chất, con người sống trong tự nhiên như một sinh vật. Chính tự nhiên là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của con người.

1.2.

Xã hội

Xã hội là một bộ phận của tự nhiên, là hình thái vận động cao nhất của vật chất. Hình thái vận động này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. “Xã hội không phải gồm các cá nhân mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của những cá nhân đối với nhau” (C.Mac)

3

Như vậy, xã hội được hình thành thông qua những hoạt động có ý thức của con người chứ không tự phát như tự nhiên. Qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, tự nhiên tự có những quy luật của riêng nó và xã hội cũng có lịch sử phát triển của mình, thể hiện ở sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng trong cơ cấu của xã hội.

2. Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội. 2.1.

Xã hội – Bộ phận đặc thù của tự nhiên.

Như đã nói, con người và xã hội loài người là bộ phận của tự nhiên. Nguồn gốc của con người chính là tự nhiên. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo quy luật tiến hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ động vật (Về nguồn gốc các loài – Đác-uyn). Con người sống trong tự nhiên như mọi sinh vật khác vì con người chính là sinh vật của tự nhiên. Ngay cả bộ óc con người cũng chính là sản phẩm cao nhất của vật chất. Vì vậy, tự nhiên chính là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của con người. Con người ra đời không chỉ nhờ những quy luật sinh học, từ tự nhiên mà còn nhờ lao động. Lao động là một quá trình được tiến hành giữa con người với tự nhiên, trong quá trình này, con người khai thác, sử dụng và tối ưu tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Qua quá trình lao động, con người dần hoàn thiện cả về vật chất và ý thức. Đó là sự hoàn thiện về cấu tạo cơ thể và hình thành ngôn ngữ. Chính lao động và ngôn ngữ đã khiến bộ não con người phát triển vượt bậc so với những động vật khác, tâm lý động vật đã chuyển thành tâm lý con người. Cùng với đó là sự hình thành các quan hệ giữa người với người, cộng đồng người dần thay đổi, từ mang tính bầy đàn sang một cộng đồng mới khác hẳn về chất, đó là xã hội. Xã hội lấy sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng, “là sự tác động qua lại giữa những con người”.

4

Xã hội mang tính đặc thù ở chỗ: nhân tố hoạt động là của con người có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Hoạt động của con người không chỉ tái sản xuất ra chính bản thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.

2.2.

Tự nhiên – Nền tảng của xã hội.

Xã hội và tự nhiên thống nhất và tương tác với nhau. Đây là mối quan hệ biện chứng hai chiều. Trước hết, ta xét những tác động của tự nhiên lên xã hội loài người. Tự nhiên vô cùng quan trọng với xã hội. Bởi tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội. Xã hội được hình thành trong sự tiến hóa của thế giới vật chất. Tự nhiên là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì chính tự nhiên đã cung cấp những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống của con người và cũng chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết cho các hoạt động sản xuất xã hội. Vì “con người không thể sáng tạo ra được cái gì nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài. Xã hội và con người được hình thành là nhờ quá trình lao động. Trong khi đó, tự nhiên là nguồn cung cấp mọi thứ cần thiết cho sự tồn tại của xã hội và cho hoạt động lao động của con người. Do đó, tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất xã hội, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm xã hội phát triển bởi nó là nền tảng của xã hội.

2.3.

Tác động của xã hội đến tự nhiên.

Tự nhiên và xã hội có mối quan hệ khăng khít. Trong sự tác động qua lại giữa chúng, yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến sự tồn tại và sự phát triển của xã hội, còn yếu tố xã hội ngày càng có vai trò quan trọng đối với việc biến đổi và phát triển của tự nhiên. Tự nhiên là điều kiện tiên quyết đối với sự tồn tại và tiến lên của xã hội, của con người. Vai trò này của tự nhiên không có gì có thể thay thế được và cũng không bao giờ mất đi, cho dù xã hội có phát triển đến trình độ nào. Bởi lẽ, nếu coi xã hội như một cơ thể sống, thì tự nhiên là nguồn cung cấp không khí, nước và thức ăn; còn nếu coi nó như một cỗ máy sản xuất, thì tự nhiên lại là bộ phận đưa nguyên, nhiên liệu vào. Không có không khí, nước và thức ăn thì cơ thể sẽ còi cọc, ốm yếu rồi tàn lụi; không có nguyên vật liệu thì

5

cái máy cũng chỉ là thứ bỏ đi. Ngày nay, với khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, con người đã chế tạo được ra những vật liệu mới vốn không có sẵn trong tự nhiên, nhưng, suy đến cùng, thì những thành phần tạo nên chúng cũng lại đều xuất phát từ tự nhiên. Xã hội dù có phát triển đến trình độ nào thì cũng vẫn không thể thoát ra ngoài cái vòng tự nhiên, vì mọi hoạt động xã hội đều diễn ra trong tự nhiên, lấy tài liệu từ tự nhiên và có đạt kết quả hay không cũng lại phụ thuộc vào tự nhiên ấy. Tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc cản trở sản xuất xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất lao động, do đó thúc đẩy hoặc làm chậm nhịp độ phát triển xã hội. Xã hội loài người gắn bó với tự nhiên nhờ có các dòng vật chất, năng lượng và thông tin, nhờ sự kết hợp giữa lao động với thiên nhiên. Nếu tự nhiên là nguồn cung cấp các tư liệu sinh hoạt và sản xuất cho xã hội, thì xã hội là bộ phận tiêu thụ, biến đổi tự nhiên mạnh mẽ nhất, nhanh chóng nhất so với tất cả những thành phần khác của chu trình sinh học. Xã hội có thể sử dụng tất cả các nguồn vật chất vốn có của sinh quyển: từ động, thực vật đến vi sinh vật: từ đất, đá, sỏi, cát đến các loại khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt; từ những nguồn vật chất có hạn và tái tạo được đến những nguồn vật chất như ánh sáng, không khí, nước v.v..Thông qua lao động của con người trong xã hội, tự nhiên được biến đổi và bị biến đổi. Đó chính là sự tác động trở lại của xã hội đối với tự nhiên, và sẽ quyết định hướng phát triển tiếp theo của tự nhiên. Nhưng, dù có vai trò khác nhau, thì cả hai yếu tố tự nhiên và xã hội đều cùng nhau hợp thành hệ thống Tự nhiên - xã hội . Sự thống nhất của hệ thống này được xây dựng trên cơ sở cấu trúc liên hoàn chặt chẽ của sinh quyển và được bảo đảm bởi cơ chế hoạt động của chu trình sinh học - đó là chu trình trao đổi chất, năng lượng và thông tin giữa các hệ thống vật chất sống với môi trường tồn tại của chúng trong tự nhiên. Hoạt động của chu trình này tuân theo những quy luật và những nguyên tắc tổ chức chung (nguyên tắc tự tổ chức, tự điều chỉnh, tự làm sạch, tự bảo vệ) mà cả hai yếu tố cùng phải nhất loạt tuân theo thì mới đảm bảo cho một sự phát triển bền vững được.

6

2.4.

Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội

Có nhiều yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội trong đó quan trọng nhất là trình độ phát triển của xã hội và độ nhận thức, vận dụng quy luật tự nhiên, xã hội vào hoạt động thực tiễn của con người. Quan hệ xã hội với tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội: Thông qua các hoạt động của con người, lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội đã trở nên gắn bó và quy định lẫn nhau. Sự gắn bó và quy định này phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội mà tiêu chí để đánh giá là phương thức sản xuất. Sự ra đời của những phương thức sản xuất mới quyết định sự biến chuyển về chất của xã hội loài người. Chính phương thức sản xuất quy định tính chất của mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội vì mỗi phương thức sản xuất khác nhau sẽ có những công cụ lao động khác nhau để khai thác giới tự nhiên, sẽ có những mục đích tiến hành sản xuất khác nhau. Khi công cụ thay đổi, mục đích sản xuất của mỗi chế độ sản xuất thay đổi thì tính chất của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên cũng thay đổi theo. Ngày nay, khi có khoa học và kĩ thuật phát triển song với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa thì con người coi tự nhiên không chỉ là môi trường sống mà còn là đối tượng chiếm đoạt nhằm mục đích lợi nhuận. Khủng hoảng môi trường đã xảy ra ở nhiều nơi và đang đe dọa sự sống của nhân loại. Để tồn tại và phát triển con người phải chung sống hòa bình với thiên nhiên, thay đổi cách đối xử với tự nhiên mà quan trọng nhất là phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - nguồn gốc sâu xa của việc phá hoại tự nhiên nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Nhiệm vụ này là nhiệm vụ của tất cả mọi người. Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn: Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người được thể hiện thông qua hoạt động của con người. Song con người hành động theo suy nghĩ do đó mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn. Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo quy luật thì con người đã tạo ra một thế giới hài hỏa, thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai

7

thác, chiếm đoạt những cái có sẵn trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự nhiên và việc phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội là không tránh khỏi. Con người sẽ phải trả giá và chịu diệt vong. Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật của xã hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn. Thời đại ngày nay khoa học kĩ thuật phát triển, nhận thức đã được nang lên nhiều vấn đề còn lại là phải hành động cho đúng. Để tuân theo các quy luật tự nhiên thì việc xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường duy nhất.

2.5.

Con người với tự nhiên và xã hội

Con người là hiện thân của sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội: Con người là sản phẩm của tự nhiên. Con người tạo ra xã hội. Con người vốn tồn tại trong tự nhiên nhưng sau khi tạo ra xã hội thì lại không thể tách rời xã hội. Con người sống trong môi trường xã hội, trong mối quan hệ qua lại giữa người với người với người. Vì thế con người mang trong mình bản tính tự nhiên và bản chất xã hội. Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn của con người: Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người được thể hiện thông qua hoạt động của con người. Song con người hành động theo suy nghĩ do đó mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn. Nếu con người nhận thức tốt và hành động theo quy luật thì sẽ tạo ra một thế giới hài hỏa, thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái có sẵn trong giới tự nhiên thì sẽ phá hủy tự nhiên và làm phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội. Con người sẽ phải trả giá và chịu diệt vong. Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật của xã hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn.

II.

VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM Môi trường là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại của xã hội.

Nó bao gồm sinh quyển, thạch quyển, khí quyển, thủy quyển và năng lượng mặt trời

8

giúp con người duy trì sự sống. Không chỉ đơn giản là môi trường địa lý, môi trường sống của con người là môi trường tự nhiên – xã hội. Bởi con người là một thực thể sinh học trong đó.

1. Thực trạng Môi trường không còn là một vấn đề mới trong xã hội hiện đại ngày nay, tuy nhiên bàn về môi trường chúng ta không thể không nhắc đến vấn đề gây nhức nhối và luôn luôn nóng bỏng đó là ô nhiễm môi trường sinh thái. *Ô nhiễm không khí Môi trường không khí hiện nay đang bị ô nhiễm. Khu vực ở ven đô, các khu vực dân cư đông đúc... có nồng độ các chất trong không khí cao hơn. Các khí bụi, khí thải từ hoạt động giao thông, sản xuất,... đang ngày càng trở thành vấn đề đáng lưu ý. Tiêu biểu là tình trạng kẹt xe, tắc đường ở các đô thị mỗi ngày, hoạt động khai thác khoáng sản ở Quảng Ninh, Hải Phòng,..., chế biến lương thực ở Tây Nguyên... Đặc biệt là sản xuất xi măng ở khu vực phía Bắc, nhiều nghiên cứu cho thấy hàm lượng bụi cao nhất đo được thường cách các nhà máy này khoảng 1,5-3 km với hàm lượng TSP vượt nhiều so với QCVN.

Bảng 1: Nồng độ TSP trong không khí xung quanh vùng nông thôn chịu ảnh hưởng từ nhà máy xi măng khu vực phía Bắc.

9

Đặc biệt, hiện tượng ô nhiễm cục bộ đã được ghi nhận tại một số làng nghề, khu vực cụm điểm công nghiệp nằm xen kẽ trong khu dân cư, xung quanh điểm khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng, cũng như một số điểm đang diễn ra hoạt động nâng cấp cơ sở hạ tầng. Các thông số đáng chú ý là bụi, NH3, H2S, SO2, NO2... Theo số liệu thống kê của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, làng nghề tập trung chủ yếu ở miền Bắc, trong đó tập trung nhiều nhất ở đồng bằng sông Hồng(Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên,...), tiếp đến là khu vực Nam Bộ và Trung Bộ. *Ô nhiễm nguồn nước Đất nước ta có nguồn nước phong phú từ các hệ thống sông, suối dày đặc cùng với các ao, hồ, kênh rạch phân bố trên khắp Việt Nam. Đây là nguồn cung cấp nước cho sinh hoạt, sản xuất nhưng cũng là nơi phải tiếp nhận nước thải từ chính các hoạt động này. Ở nhiều nơi, nguồn nước bị suy giảm chất lượng và xảy ra ô nhiễm cục bộ của các chất hữu cơ, kim loại nặng và ô nhiễm vi sinh. Phần lớn lượng nước thải đến từ sinh hoạt, chiếm khoảng 80% lượng nước sử dụng. Theo số liệu tính toán, đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là 2 vùng tập trung nước thải sinh hoạt nhiều nhất cả nước. Ngoài ra chất thải, hóa chất từ hoạt động sản xuất chưa qua xử lý thải thẳng ra sông, hồ, ao, suối,... làm cho nguồn nước bị ô nhiễm trầm trọng. Các con sông như sông Tiền – sông Hậu, sông Đồng Nai, sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu... đang ngày càng đối mặt với tình trạng ô nhiễm. *Ô nhiễm từ sản xuất nông nghiệp Hoạt động sản xuất nông nghiệp đã và đang làm gia tăng tình trạng ô nhiễm môi trường do việc mở rộng sản xuất. Trong số 23.500 trang trại chăn nuôi, mới chỉ số khoảng 1.700 cơ sở có hệ thống xử lý chất thải. Mặt khác, các trang trại chưa được đầu tư quy mô lớn nên vẫn nằm xen kẽ trong các khu dân cư và không đủ diện tích để xây dựng các công trình bảo vệ môi trường đảm bảo xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép. Theo ước tính, có khoảng 40 – 50% lượng CTR chăn nuôi được xử lý, còn lại thải trực tiếp thẳng ra ao, hồ, kênh, rạch,...

10

Ở Thái Nguyên, toàn tỉnh có 274 trang trại, gia trại lợn thì khoảng 90% có quy mô dưới 1000 con/năm, 10% còn lại trên 1000 con/năm. Chất thải từ các trang trại này hầy hết được xử lý bằng hệ thống biogas nên chỉ giải quyết được bấn đề thu hồi khí sinh học để tận thu làm nhiên liệu, còn mức độ giảm thiểu ô nhiễm không đáng kể. Tại Thái Bình, toàn tỉnh có trên 1000 trang trại, 14000 gia trại mỗi ngày thải ra môi trường 477 tấn chất thải.

2. Nguyên nhân

Đầu tiên, đó chính là sự thiếu ý thức nghiêm trọng của nhiều người dân . Nhiều

người nghĩ rằng những việc mình làm là quá nhỏ bé, không đủ để làm hại môi trường. Một số khác lại cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm của nhà nước, của chính quyền mà không phải của mình. Số khác lại nghĩ rằng việc môi trường đã bị ô nhiễm thì có làm gì đi chăng nữa cũng không đáng kể, và việc ô nhiễm môi trường cũng không ảnh hưởng gì tới mình nhiều... Tất cả đều sai lầm, việc phá hoại môi trường của một người tuy chỉ ảnh hưởng nhỏ nhưng tập hợp nhiều người lại là lớn. Trách nhiệm bảo vệ môi trường không phải của riêng một ai mà là của tất cả mọi người. Một nguyên nhân khác gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không ít doanh nghiệp đã vi phạm quy trình khai thác, góp phần đáng kể gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay với xu thế hội nhập toàn cầu hóa, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài hay sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các khu vực càng làm gia tăng sự nguy hại đối với môi trường khi ai ai cũng đặt nặng mục tiêu lợi nhuận trước mắt. Bên cạnh...


Similar Free PDFs