HỒ ĐẶNG HOÀI AN-22109645-CHỦ ĐỀ 3 PDF

Title HỒ ĐẶNG HOÀI AN-22109645-CHỦ ĐỀ 3
Author An Hồ Đặng Hoài
Course Kinh tế chính trị Mác-Lênin
Institution Đại học Hoa Sen
Pages 14
File Size 313.6 KB
File Type PDF
Total Downloads 120
Total Views 229

Summary

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SENMÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNINLớp: 4147_ CHỦ ĐỀ: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Minh Qua...


Description

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN

MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN Lớp: 4147_2131

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ

CHỦ ĐỀ:Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Minh Quang Sinh viên thực hiện: Hồ Đặng Hoài An – MSSV: 22109645

Tháng 01/2022

LỜI MỞ ĐẦU Triết học là cốt lõi lý luận của thế giới quan con người. Vì vậy, triết học đúng đắn và khoa học có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của toàn xã hội, đặc biệt là nền kinh tế. Chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó có triết học MácLênin, là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong triết học Mác – Lênin, “thực tiễn” và “nhận thức” thường xuyên được đề cập đến, giữa chúng có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau và đây là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào của con người thì những vấn đề về “nhận thức” và “thực tiễn” phải được đưa ra xem xét cùng nhau, chỉ khi đó các hoạt động của con người mới có thể đi đúng hướng và đạt được hiệu quả cao. Đối với kinh tế, tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX (2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội, coi đây là mô hình tổng quát và đường lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một bước đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là vấn đề lý luận và thực tiễn mới, là kết quả của một quá trình tìm tòi, thử nghiệm lâu dài, từ chưa đầy đủ đến ngày càng hoàn thiện, từ chưa sâu sắc đến ngày càng sâu sắc hơn. Trên cơ sở triết học Mác - Lê-nin, Đảng và nước ta đã học hỏi, tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, xác định mục tiêu, phương hướng xây dựng và phát triển xã hội đúng đắn, phù hợp với điều kiện đất nước. Mặc dù không tránh khỏi những thiếu sót, nhưng chúng ta luôn đi đúng hướng trong thực tiễn cải tiến và phát triển nền kinh tế thị trường, từng bước đưa đất nước ta ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi. Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn, em xin chọn chủ đề: “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào

quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.” NỘI DUNG I) Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. 1) Một số khái niệm cơ bản. 1.1) Thực tiễn. Theo triết học Mác – Lênin, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất – cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ. Hoạt động thực tiễn là những hoạt động mà con người phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất, biến đổi chúng phục vụ cho nhu cầu. Vì thế, hoạt động thực tiễn của con người là hoạt động có tính tự giác cao, khác với những hoạt động mang tính bản năng nhằm thích nghi với hoàn cảnh của động vật. Mặc khác, hoạt động thực tiễn không thể thực hiện bằng vài cá nhân riêng lẻ mà phải có sự tham gia của đông đảo người trong xã hội. Nó được truyền lại cho nhau từ thế hệ này đến thế hệ khác, không ngừng phát triển qua các thời kì lịch sử. Bản chất của hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể, trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Hoạt động thực tiễn là phương thức cơ bản, phổ biến của mối quan hệ giữa con người với thế giới. Không có hoạt động thực tiễn thì bản thân con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển. Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng có ba hình thức cơ bản: Hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động quan trọng và cơ bản nhất của con người, là hoạt động quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và quyết định hai hình thức còn lại. Nói tóm lại, thực tiễn là cầu nối con người với tự nhiên, xã hội, giúp con người làm chủ tự nhiên.

1.2) Nhận thức. Tất cả các trào lưu triết học trước Mác đều quan niệm sai lầm, phiến diện, không khoa học về nhận thức. Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý, phát triển sáng tạo và chứng minh bằng khoa học kỹ thuật và thực tiễn xã hội, C.Mác và Ph.Awngghen đã xây dựng nên học thuyết về nhận thức dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng. Học thuyết này ra đời dựa trên bốn nguyên tắt cơ bản sau: - Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thức của con người. - Thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể - Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ hiện tượng đến bản chất, từ biết ít đến biết nhiều, từ kém sâu sắc đến sâu sắc hơn. - Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Nói chung, theo triết học Mác - Lênin, nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan, tích cực và sáng tạo thế giới vật chất vào bộ não con người trên cơ sở thực tiễn. Đây là một quá trình phức tạp, quá trình nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn chứ không phải quá trình máy móc giản đơn, thụ động và nhất thời. 2)

Các giai đoạn của quá trình nhận thức

Các nhà triết học dù thuộc trường phái nào đều thừa nhận quá trình nhận thức bao gồm nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, nhưng khác nhau ở việc xác định vai trò, vị trí, mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Theo V.I.Lênin, quá trình biện chứng đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn là con dường của sự nhận thức thực tại khách quan.

Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu tiên của nhận thức, gắn liền với thực tiễn. Ở giai đoạn này, con người thông qua các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật nhằm nắm bắt các sự vật ấy, được diễn ra dưới ba hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng. Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất ở giai đoạn này. Nó đưa lại cho con người những thông tin trực tiếp, giản đơn nhất về thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng khi sự vật hiện tượng đó tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Hình thành kế tiếp sau cảm giác là hình ảnh đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật nhưng đó vẫn là hình ảnh trực tiếp, cảm tính của tri giác. Tri giác là tổng hợp của cảm giác, là kết quả của sự tác động trực tiếp đồng thời lên nhiều giác quan của con ngườiSau khi sự vật không còn trực tiếp tác động vào các giác quan, biểu tượng chính là hình ảnh còn lưu lại trong bộ não của con người. Biều tượng hình thành trên cơ sở những hiểu biết về sự vật do tri giác đem lại, có sự tham gia của các yếu tố gián tiếp: phân tính, tổng hợp,… Vì thế, nó vẫn là hình ảnh cảm tính về sự vật và được coi là một khâu trung gian chuyển từ trực quan sinh động lên tư duy trừu tượng hơn. Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) phản ánh sự vật một các gián tiếp, khái quát hơn, đầy đủ hơn về thuộc tính và những đặc điểm bản chất của sự vật. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện các chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính qui luật của sự vật, hiện tượng dưới ba hình thức: khái niệm, phán đoán và suy lý. Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh, khái quát, gián tiếp một số thuộc tính cơ bản, phổ biến nhất của một lớp các sự vật, hiện tượng nhất định. Được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người và kết quả của sự khái quát, tổng hợp từ trực quan sinh động. Khái niệm chính là “điểm nút” của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán đoán. Phán đoán là hình thức liên hệ các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng của thế giới trong ý thức của con người. Bằng cách liên kết các khái niệm lại để khằng định hay phủ định một thuộc tính nào đó của sư vật, hiện tượng. Suy lý (suy luận) là quá trình logic liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới bằng phán đoán mới. Suy lý

là phương thức quan trọng giúp con người rút ngằn thời gian trong việc phát hiện tri thức mới. Nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Hai giai đoạn của một quá trình nhận thức khác nhau về chất nhưng lại thống nhất với nhau, liên hệ, bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức của con người dựa trên cơ sở thực tiễn. Tuy nhiên, cần tránh cường điệu, tuyệt đối hóa vai trò của một bên và phủ nhận bên còn lại. Hơn nữa, nếu chỉ dừng lại ở nhận thức lí tính thì con người mới chỉ có được nhũng tri thức về đối tượng, còn bản thân tri thức ấy có chân thực hay không thì con người chưa biết được. Vì vậy, nhận thức phải trở về đúng thực tiễn để kiểm tra, khẳng định, kiểm nghiệm lại tri thức đó là đúng hay sai, có chân thực hay không. Quay trở về với thực tiễn, nhận thức kết thúc một chu trình biện chứng và bắt đầu một chu trình mới sâu sắc hơn, toàn diện hơn. Cứ thế, nhận thức của con người là vô tận. Đồng thời cũng giải quyết các mâu thuẫn sinh ra trong nhận thức, giúp con người tiến gần đến chân lý. 3)

Mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức

Mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức được thể hiện trước hết ở chỗ: Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người nhận thức. Chính thực tiễn cung cấp tài liệu, vật liệu cho nhận thức và luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Vì thế nó luôn thức đẩy sự ra đời của các ngành khoa học, rèn luyện các giác quan của con người trở nên hoàn thiện, tinh tế hơn, giúp quá trình nhận thức của con người tốt hơn. Ví dụ như, hoạt động thực tiễn là cơ sở chế tạo các phương tiện, máy móc phục vụ con người trong quá trình nhận thức: kính hiển vi, kính thiên văn, máy vi tính,… Suy cho cùng, không một lĩnh vực tri

thức nào không xuất phát từ thực tiễn, không phục vụ, hướng dẫn thực tiễn.. Như vậy, thực tiễn chính là nền tảng để nhận thức con người nảy sinh, tồn tại và là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển. Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức. Nhận thức của con người ngay từ khi bắt đầu đã bị quy định bởi nhu cầu thực tiễn. Nếu không vì thực tiễn, nhận thức lâm vào bế tắc, chủ thể nhận thức sẽ không có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới. Nhận thức của con người là nhằm phục vụ thực tiễn, dẫn dắt thực tiễn chứ không đề phục vụ cho những ý tưởng viễn vông. Mọi tri thức khoa học – kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa khi được áp dụng vào dời sống thực, trực tiếp hoặc gián tiếp, để phục vụ con người. Thực tiễn không chỉ là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà còn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Tri thức của con người có thể phản ánh đúng hoặc sai hiện thực. Cho nên, chúng ta cần một thước đo giá trị của những tri thức mà nhận thức đã đạt được. Nhưng chúng ta không thể lấy tri thức, sự hiển nhiên hay sự tán thành của số đông, sự có ích để kiếm tra sự đúng, sai của tri thức. Vì thế, thực tiễn trở thành tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý, đây là tính tuyệt đối của thực tiễn trong vai trò là tiêu chuẩn của chân lý. Chỉ có thực tiễn mới có thể vật chất hóa tri thức, hiện thực hóa tư tưởng, qua đó khằng định hoặc phủ định một tri thức nào đó. Tuy nhiên, tiêu chuẩn ấy cũng có tính tương đối được thể hiện ở chỗ thực tiễn có quá trình vận dộng, thay đổi và phát triển do đó thực tiễn cũng không ngừng bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện nhận thức. Nhưng, chúng ta không bao giờ xác nhận hay bác bỏ hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người. Tóm lại, quan điểm về đời sống, thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. Như vậy, thực tiễn không những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết dịnh đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức luôn luôn hướng tới để kiểm nghiêm tính đúng đắn của mình. Từ vai trò ấy, chúng ta nhận thấy rằng cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hành động. Quan điểm này yêu cầu nhận thức phải đi chung với

thực tiễn, lấy thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm sự đúng sai của nhận thức. Không nên quá xa rời thực tiễn dẫn dến duy ý chí, giáo điều máy móc và cũng không nên quá dựa vào thực tiễn dẫn đến chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa. II) Sự vận dụng trong điều kiện thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 1)

Khái quát về nền kinh tế thị trường:

Đối với kinh tế, mô hình kinh tế thị trường là mô hình kinh tế phổ biến và hiệu quả nhất trong phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mô hình này không chỉ áp dụng cho các nước tư bản, mà cả các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, được sử dụng ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Kinh tế thị trường là một trong những phương thức tồn tại của nền kinh tế mà trong đó các quan hệ kinh tế đều được biểu hiện thông qua quan hệ hàng hoá thị trường. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá và vì thế nó hoàn toàn khác với kinh tế tự nhiên - là nền kinh tế quan hệ dưới dạng hiện vật, chưa có trao đổi. C.Mác cho rằng kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử, và bất kỳ nền kinh tế nào cũng phải trải qua giai đoạn này nếu muốn leo lên một nấc thang cao hơn trên con đường phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. mức độ chung và đầy đủ. Bậc thang cao hơn là kinh tế cộng sản chủ nghĩa, và giai đoạn đầu là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để đi lên, kinh tế thị trường phải được phát triển toàn diện và phổ biến trong đời sống kinh tế xã hội.

2)

Sự vận dụng trong điều kiện thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam vào

quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 2.1) Sự đổi mới tư duy trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường của Đảng Cộng sản Việt Nam. 2.1.1) Giai đoạn trước đổi mới Đây là giai đoạn nền kinh tế chịu sự thống trị tuyệt đối của chế độ sở hữu công cộng, vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung với các đặc trưng nổi bật là quan liêu - bao cấp. Các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, thị trường bị phủ nhận.Chế độ này tuy đã có tác dụng trong chiến tranh, góp phần mang lại chiến thắng vẻ vang cho dân tộc ta. Song khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết điểm, làm cho nền kinh tế suy thoái, thiếu hụt, hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không được thực hiện. Do tính kém hiệu quả của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, dưới áp lực của thực tiễn, trong thời kỳ cuối thập niên 1970, đầu thập niên 1980, trong nền kinh tế diễn ra những cải cách cục bộ theo hướng bước đầu thừa nhận thị trường là một công cụ bổ sung cho kế hoạch, chủ yếu để tổ chức hoạt động kinh doanh ở cấp vi mô. 2.1.2) Đổi mới tư duy kinh tế là tiền đề nhận thức lý luận của đổi mới toàn diện ở Việt Nam (thời kỳ từ Đại hội VI đến nay). Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã được Đại Hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại Hội VII của Đảng khẳng định "Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Và đến Đại hội VIII của Đảng đã thống nhất "Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN". Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

Đại hội IX (tháng 4-2001) đã nhìn lại một cách tổng quát, rút ra 4 bài học qua 15 năm đổi mới (1986 - 2000), định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI; khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ. Với sự xác định như vậy, Đại hội IX đã tiến một bước dài trong việc cụ thể hoá mô hình phát triển kinh tế theo định hướng XHCN của Việt Nam. Trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới (1986-2006), Đại hội X đã khẳng định: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.” Gắn với đường lối cơ bản này, Đại hội X đã chỉ rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta; nêu rõ những yêu cầu cần phải thực hiện để nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước; để phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; và để phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh. Đại hội XI tiếp tục khái quát thực tiễn, cụ thể hóa hơn mô hình phát triển nền kinh tế thị trường, nhấn mạnh yêu cầu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển). Đây là văn kiện quan trọng xác định đặc điểm thời đại và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong những thập kỷ tiếp theo. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 xác định 3 đột phá quan trọng nhằm thay đổi mô hình tăng trưởng mở rộng theo chiều sâu và hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Đại hội XII đã tiến thêm một bước làm rõ hơn khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ quan trọng: “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế - xã hội”.

3)

Quan điểm và chính sách chủ yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm

phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay. 3.1) Quan điểm phát triển kinh tế. 1. Tiếp tục đổi mới và sáng tạo trong lãnh đạo, quản lý phát triển kinh tế-xã hội. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Xây dựng nền kinh tế hiện đại, hội nhập quốc tế, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ, hiệu quả theo quy luật thị trường, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. 2. Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô và không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh và giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước. 3. Hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát triển của Nhà nước. Phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của người dân trong hoàn thiện và thực thi luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. 4. Phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, bền vững. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp tư nhân, làm động lực nâng cao sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế. 3.2) Chính sách chủ yếu nhằm phát triển kinh tế xã hội. - Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế- xã hội. - Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh. - Xây dựng thống nhất kết cấu hạ tầng và đô thị.

- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ. - Phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. - Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. - Phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, ...


Similar Free PDFs