QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LENIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA PDF

Title QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LENIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
Course Triết học Mác Lênin
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 15
File Size 269.7 KB
File Type PDF
Total Downloads 42
Total Views 115

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ----------------------o0o---------------------TIỂU LUẬN TRIẾT HỌCQUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LENIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤNĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNGNGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TASinh viên thực hiện : Nguyễn Thanh Hà Mã sinh ...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ ----------------------o0o---------------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LENIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA

Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thanh Hà

Mã sinh viên

: 2111330608

Số thứ tự

: 25

Lớp tín chỉ

:TRI114.6

Giáo viên hướng dẫn

: TS. Đào Thị Trang

Hà Nội, 2021

Mục lục

LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 1 CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI..........3 I. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI..........................................................3 1. KHÁI NIỆM CON NGƯỜI.....................................................................................3 2.QUAN NIỆM CƠ BẢN VỀ CON NGƯỜI:.............................................................3 II. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI :....................................................6 CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY :.................7 I. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa – hiện đại hóa......................................7 1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa :..............................................................7 2. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa – hiện đại hóa :................................7 3. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa :.........................................................8 II. Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay :................................................................................................................................ 9 III. Hiện trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở nước ta hiện nay:.....................9 1. Hiện trạng :.............................................................................................................. 9 2. Giải pháp :............................................................................................................. 11 KẾT LUẬN...................................................................................................................... 12 NGUỒN THAM KHẢO.................................................................................................. 13

LỜI MỞ ĐẦU Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học cổ đại đến hiện đại. Triết học Mác – Lênin nhằm giải quyết những nội dung liên quan đến con người như bản chất con người là gì ? Vị trí, vai trò của con người đối với thế giới như thế nào? … Tất cả những vấn đề trên về thực chất là học thuyết giải phóng con người, hướng tới mục đích vì con người – chủ thể của lịch sử, xã hội, thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của triết học Mác – Lênin. Trong mọi thời đại, nguồn tài nguyên, của cải đích thực và quý giá nhất của mỗi quốc gia chính là con người. Vì vậy, mục đích phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, xét đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo môi trường thuận lợi để con người có cơ hội phát huy mọi năng lực sáng tạo, có cuộc sống hạnh phúc. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển của nhiều nước trên thế giới. Và Việt Nam cũng không là một ngoại lệ . Song dựa vào đâu để đảm bảo việc thực hiện nó một cách thật hiệu quả và không phải trả giá quá đắt thì lại không dễ dàng, bởi vì từ chỗ thấy được tính tất yếu nếu không thận trọng lại dễ sa vào những duy ý chí như đã từng xảy ra trước đây nhưng trái lại nếu chỉ thấy khó khăn, bất lợi mà chùn bước thì ta sẽ mãi cam chịu sự tụt hậu, kém phát triển. Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương khoá VII, Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Phát triển con người Việt Nam toàn diện - đó cũng chính là động lực, là mục tiêu nhân đạo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta đang từng bước tiến hành. Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển nền kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì chất lượng người lao động là nhân tố quyết định. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Thực tiễn đã chứng tỏ rằng không có người lao động chất lượng cao. Chúng ta không thể phát triển kinh tế, đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Nhưng cũng chính vì nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế mà chất lượng của người lao động nước ta chưa cao. Để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này và tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì một nước đang còn ở tình trạng kém phát triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu

bền, có tầm nhìn xa trông rộng, phát triển con người, nâng cao dần chất lượng của người lao động. Với những yêu cầu bức thiết đó, trong công cuộc công nghiệp hoa shieenj đại hóa đất nước, hơn lúc nào hết chúng ta cần phải xem xét nguồn nhận lực Việt Nam đang bộc lộ những ưu điểm gì, hạn chế nào và cần khắc phục như thế nào để xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, nâng cao dần chất lượng của người lao động, phát huy được nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta như hiện nay nên em đã chọn đề tài tiểu luận : “Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta”.

2

NỘI DUNG CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã từng tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất con người. Trước C.Mác, vấn đề bản chất con người vẫn chưa được giải đáp một cách thực sự khoa học. Không những chủ nghĩa duy tâm mà cả chủ nghĩa duy vật trực quan, siêu hình cũng không nhận thức đúng bản chất con người. I. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI 1. KHÁI NIỆM CON NGƯỜI Con người là một thực thể mang đặc tính xã hội. Đối với Mác “con người không phải là một tồn tại trừu tượng, ẩn náu đâu đó ngoài thế giới”. Đó là những con người sống trong một thời đại nhất định, một môi trường xã hội nhất định, có những quan hệ xã hội phong phú, phức tạp và ngày càng phong phú với sự phát triển của văn minh. Tiền đề vật chất đầu tiên qui định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là tự nhiên, vì vậy bản tính tự nhiên là một trong những phương diện cơ bản của con người, loài người. Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ giác ngộ sau đây: -

-

Con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là “ thân thể vô cơ của con người”.

2.QUAN NIỆM CƠ BẢN VỀ CON NGƯỜI: 2.1. Con người là thực thể sinh học – xã hội: Theo chủ nghĩa Mác - Lênin khái niệm con người chỉ những cá thể người như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Con người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy nhiều quy luật sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Để tồn tại với tư cách là một con người trước hết con người cũng phải ăn, phải uống... Điều 3

đó giải thích vì sao Mác cho rằng co người trước hết phải ăn, mặc ở rồi mới làm chính trị. Trong tính hiện thức của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Không chỉ có “con người là tổng hoà các quan hệ xã hội” mà thực ra quan điểm của Mác là một quan điểm toàn diện. Mác và Anghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết học đi trước rằng. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội, nhưng khác với họ, Mác, Anghen; xem xét mặt tự nhiên của con người, như ăn, ngủ, đi lại, yêu thích... Không còn hoàn mang tính tự nhiên như ở con vật mà đã được xã hội hoá. Mác viết: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội” con người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã so sánh con người với con vật, so sánh con người với những con vật có bản năng gần giống với con người... Và để tìm ra sự khác biệt đó. Mác đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người khác với thế giới loài vật về bản chất 3 phương diện: Quan hệ với thiên nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với bản thân. Sự khác biệt ấy thể hiện con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội hoặc bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Bởi vì, cả ba mối quan hệ ấy, suy đến cùng đều mang tính xã hội giữa người và người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác của con người.Ngoài ra con người biến đổi tự nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con người sản xuất ra công cụ sản xuất... Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau: -

Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người

Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Điều lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội, không có nghĩa phủ nhận mặt tự nhiên trong cuộc sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật ở bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác về bản chất xã hội của con 4

người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không phải là cái duy nhất; do đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội 2.2. Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử: Con người là sản phẩm phát triển của tự nhiên và lịch sử phát triển của xã hội. Song, điều quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là chủ thể của lịh sử xã hội. Với tính cách chủ thể của lịch sử, thông qua hoạt động thực tiễn, con người biến đổi giới tự nhiên, biến đổi xã hội và bản thân mình. C. Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục… cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”. Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người.Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người. Không có con người trừu tượng, con người là cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử và bản chất của con người trong tính hiện thực của nó là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở tương ứng với điều kiện lịch sử của con người. Cho nên, có thể nói rằng, sự vận động và phát triển của lịch sử sẽ quy định tương ứng 5

với sự vận động và phát triển của bản chất con người thông qua những mối quan hệ xã hội trong lịch sử. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. 2.3. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội: Trong khi phê phán những quan điểm của Phoiơbắc, xuất phát từ những cá thể cô lập C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người: "Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Luận điểm trên thể hiện sự khẳng định bản chất con người trên cả 3 phương diện: quan hệ với tự nhiên, xã hội và bản thân. Cả ba quan hệ đó đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ giữa người với người là quan hệ đặc trưng. Nó khẳng định bản chất của con người có tính lịch sử với những hoàn cảnh điều kiện cụ thể về không gian thời gian, là tổng hòa của những quan hệ xã hội chịu sự chi phối của quan hệ giai cấp dân tộc thời đại. Bản chất của con người là mặt xã hội, trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Tuy nhiên không có nghĩa là chúng ta phủ định mặt tự nhiên trong đời sống con người. Khía cạnh sinh vật là tiền đề trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối. II. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI : Cá nhân là một hiện tượng mang tính lịch sử với tính cách là những con người cụ thể và đồng thời là sản phẩm của sự phát triển xã hội, là chủ thể lao động của các quan hệ xã hội, và của nhận thức. Cá nhân là một con người hoàn chỉnh trong sự thống nhất những khả năng riêng có của con người đối với chức năng xã hội do người đó thực hiện. Khái niệm xã hội được xác định trên bình diện rộng hẹp khác nhau: loài người, quốc gia, dân tộc, giai cấp, chủng tộc, v.v Nhưng dù thể hiện dưới hình thức nào xã hội bao giờ tồn tại như một hệ thống hoàn chỉnh của những quan hệ xã hội, cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một mối quan hệ biện chứng, trong đó xã hội giữ vai trò quyết định, nền tảng của mối quan hệ này là lợi ích. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho khai thác được cao nhất của mỗi thành viên vào các quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó xã hội bao giờ cũng là điều kiện, môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Sự phát triển của xã hội dẫn đến tính chất đa dạng và phong phú về lợi ích, về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Cá nhân ngày càng tiếp nhận nhiều hơn những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội nhằm thỏa mãn những nhu cầu cho hoạt động và sự phát triển nhân cách của 6

mỗi cá nhân. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội về lợi ích cũng thay đổi và phát triển có tính chất lịch sử, phụ thuộc vào quá trình thay đổi của các phương thức sản xuất vật chất khác nhau.

CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY : I. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa – hiện đại hóa 1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa : Từ giữa thế kỷ XVIII, cách mạng công nghiệp đã được tiến hành ở nước Anh và sau đó diễn ra ở các nước tư bản Tây Âu, nó được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc. Nhưng khái niệm công nghiệp hóa nói riêng và khái niệm kinh tế nói chung nó mang tính lịch sử, tức là luôn luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ. Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa và từ thực hiện công nghiệp hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã đưa ra khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Quan niệm nêu trên cho thấy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong quá trình phát triển. Quá trình ấy, không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình ấy không chỉ tuần tự trải qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, mà còn sử dụng kết hợp kỹ thuật thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định. 2. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa – hiện đại hóa : Mỗi phương thức sản xuất trong xã hội đều có cơ sở vật chất và kỹ thuật tương ứng. Trong giai đoạn trước thời kỳ chủ nghĩa tư bản, cơ sở vật chất, kỹ thuật

7

khá lạc hậu và thô sơ. Đến thời kỳ chủ nghĩa tư bản, đặc trưng của cơ sở vật chất đã tiến lên một bước thành nền đại công nghiệp cơ khí hóa. Do đó, đối với phương thức sản xuất của chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tiến bộ hơn nữa cả về mặt trình độ lẫn cơ cấu kỹ thuật sản xuất. Những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ chính là nền tảng cho những bước tiến này. Vì thế, cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phải thật sự hiện đại, có tính xã hội hóa cao được xây dựng và hình thành theo kế hoạch. Đặc biệt đối với các nước đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam thì việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật để phát triển kinh tế, xã hội là rất quan trọng. Trong đó, công nghiệp hóa hiện đại hóa chính là chìa khóa. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ là một bước tăng cường quan trọng cho cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. 3. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đóng vai trò quan trọng, có những tác động to lớn và mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế, xã hội và mọi mặt đời sống của đất nước.  Tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất laođộng, tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.  Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích luỹ và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do toàn diện của con người tr...


Similar Free PDFs