QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY PDF

Title QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Author Trang Nguyễn
Course Triết học Mác Lênin
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 23
File Size 305 KB
File Type PDF
Total Downloads 254
Total Views 1,046

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊTIỂU LUẬN TRIẾT HỌCĐề tài: QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆGIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘCĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAYSinh viên thực hiện:Mã sinh viên:Lớp tín chỉ:Lớp hành chính:GV hướng dẫn:Hà Nội, tháng 12 năm 2021Mục ...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ 

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC Đề tài: QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ

GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Sinh viên thực hiện: Mã sinh viên: Lớp tín chỉ: Lớp hành chính: GV hướng dẫn:

Hà Nội, tháng 12 năm 2021

Mục lục DANH MỤC VIẾT TẮT…………………………………………………………...2 MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………....3 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC………………………………………………………………..6 1.1.

Vật chất………………………………………………………………………6

1.1.1. Định nghĩa vật chất của Lênin……………………………………………..6 1.1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất……………………………………...….7 1.2. Ý thức…………………………………………………………………………..7 1.2.1. Nguồn gốc của ý thức………………………………………………………7 1.2.2. Bản chất của ý thức………………………………………………………...8 1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức………………………………9 1.3.1. Vai trò của vật chất với ý thức……………………………………………..9 1.3.2. Vai trò của ý thức với vật chất……………………………………………10 1.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận và ý nghĩa thực tiễn………………………….11 CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY…………………………………………………………..13 2.1. Xuất phát từ thực tế khách quan và bám sát thực tiễn………………………..13 2.2. Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan………………………………..16 2.3. Chú tâm mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa………………………………..18 KẾT LUẬN………………………………………………………………………..20 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………21 1

DANH MỤC VIẾT TẮT

CNDVBC

Chủ nghĩa duy vật biện chứng

CNDV

Chủ nghĩa duy vật

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

Nxb

Nhà xuất bản

2

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thế giới quan xung quanh con người dù đa dạng, phức tạp đến đâu, dù trong bối cảnh lịch sử nào đều quy về hai dạng tồn tại là vật chất và ý thức. Quan điểm CNDVBC Mác-Lênin đã chỉ ra rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức nhưng đồng thời ý thức cũng tác động trở lại vật chất. Mối quan hệ này đã được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng để tìm ra phương hướng phát triển cho mình, trong đó có cả Việt Nam. Tiến lên CNXH là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan trọng nhất của Đảng và nhân dân ta hiện nay vì chỉ có thực hiện được mục tiêu này, chúng ta mới có thể xây dựng được một nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh. Tại Đại hội lần thứ VII, Đảng ta lần đầu tiên đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng [1]. Tức là, chúng ta phải: dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác- Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của Cách mạng XHCN phù hợp với tình hình nước ta. Tuy đã đạt nhiều thành tựu to lớn, làm thay đổi bộ mặt đất nước, tạo ra thế và lực mới từ công cuộc đổi mới, nền kinh tế của nước ta vẫn còn tụt hậu so với các nước khác trong khu vực. Trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta cần tiếp tục tiến hành và đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt, giữ vị trí chủ đạo. Đồng thời đổi mới về văn hóa cũng mang tính cấp bách bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới văn hóa có mối liên hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau không thể tách rời nhau. Chính vì vậy, chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, tạo cơ sở lý luận đúng đắn cho việc vận dụng vào mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa của đất nước, xây dựng Việt Nam ngày càng phát triển. 3

Có thể thấy việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có một ý nghĩa tích cực cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Nhận thấy được điều này cùng với mong muốn hệ thống hóa những kiến thức liên quan đến triết học đã tích lũy được, tôi đã chọn đề tài “Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.” Bài viết sẽ phân tích và làm rõ những lý luận chung nhất về vật chất và ý thức, mối quan hệ biện chứng giữa chúng và sự vận dụng những lý luận trên vào công cuộc đổi mới Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của tiểu luận là sử dụng hệ thống lý luận triết học về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan điểm duy vật biện chứng nhằm làm rõ vai trò của mối quan hệ đó vào việc xây dựng đất nước phát triển. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu tổng quan, các khái niệm liên quan. Phân tích ý nghĩa phương pháp luận, ý nghĩa thực tiễn của mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Nghiên cứu phương pháp áp dụng những lý luận đã có vào công cuộc đổi mới nước ta. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của tiểu luận là vật chất- ý thức, mối quan hệ biện chứng giữa chúng và tình hình công cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam. 4. Kết cấu tiểu luận Ngoài phần danh mục viết tắt, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 2 phần như sau: 4

 Phần 1: Cơ sở lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức  Phần 2: Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC 1.1. Vật chất 1.1.1. Định nghĩa vật chất của Lênin Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, CNDV rơi vào khủng hoảng. Trong bối cảnh đó, để chống lại sự xuyên tạc của các nhà triết học duy tâm đồng thời bảo vệ và phát triển thế giới quan duy vật, V.I.Lênin đã tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cũng như kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen để đưa ra một định nghĩa về phạm trù vật chất khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Định nghĩa này bao gồm những nội dung quan trọng sau: - Thứ nhất, cần phân biệt rõ khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học (tức phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học) với khái niệm “vật chất” được sử dụng trong một số ngành khoa học cụ thể hoặc trong đời sống thường ngày. - Thứ hai, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức của con người dù cho con người nhận thức được hay không nhận thức được nó. - Thứ ba, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người bằng cách tác động lên giác quan của con người một cách trực tiếp hoặc gián tiếp rồi được cảm giác chép lại,

6

chụp lại, phản ánh lại. Từ đó ta có thể hiểu rằng vật chất là có trước, ý thức là có sau. 1.1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất 1.1.2.1. Vận động Dựa theo quan điểm siêu hình, vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể trong không gian, thời gian, và nguồn gốc của sự vận động là ở bên ngoài sự vật hiện tượng. Tuy nhiên, các nhà duy vật biện chứng cho rằng vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Nó là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất. Vật chất và vận động không tách rời nhau, vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua sự vận động mà biểu hiện. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào dù trong tự nhiên hay trong xã hội, dù là vật thể vô cùng lớn như các hành tinh, thiên hà,… hay vật thể vô cùng nhỏ như các hạt cơ bản, dù thuộc giới vô sinh hay hữu sinh cũng đều tồn tại trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. 1.1.2.2. Không gian và thời gian Các nhà duy vật cho rằng không gian và thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất. Không có vật chất nào tồn tại bên ngoài không gian, thời gian cũng như không có không gian, thời gian nào tồn tại bên ngoài vật chất. Không gian và thời gian có những tính chất sau đây: - Tính khách quan - Tính vĩnh cửu của thời gian và tính vô tận của không gian - Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian 1.2. Ý thức 1.2.1. Nguồn gốc của ý thức - Nguồn gốc tự nhiên: Theo quan điểm của CNDVBC, ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng 7

vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người. Ý thức không tự sinh ra trong bộ óc mà là kết quả phản ánh sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ não người. - Nguồn gốc xã hội: Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội. Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. 1.2.2. Bản chất của ý thức Theo quan điểm của Mác: Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người. Trước hết, ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan, không có tính vật chất. Ý thức là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính. Ý thức bao giờ cũng là ý thức của con người. Mỗi con người đều tồn tại trong một xã hội nhất định. Ý thức phát triển tùy thuộc vào sự phát triển của xã hội, vì vậy, ý thức bao giờ cũng có bản chất xã hội. Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động máy móc của sự vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động nên ý thức từ đó cũng mang đặc tính tích cực, sáng tạo. Điều này không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất mà ý thức “Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người, và được cải biến đi ở trong đó” [2]. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, song đó là sự phản ánh đặc biệtphản ánh trong quá trình con người tác động cải tạo thế giới. Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt sau đây: - Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết. Xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn, của đời sống xã hội nói chung, sự phản ánh của ý 8

thức bao giờ cũng tập trung vào những cái cơ bản chính yếu tùy theo nhu cầu của chủ thể phản ánh. - Hai là mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Có thể hiểu đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, chuyển hóa các đối tượng vật chất thành các ý thức tinh thần phi vật chất. - Ba là quá trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Các nhà duy tâm biện chứng cho rằng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. [3] 1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức 1.3.1. Vai trò của vật chất với ý thức Theo quan điểm duy vật biện chứng, vật chất quyết định ý thức. Thứ nhất, vật chất là cái có trước và là nguồn gốc của ý thức. Phải có bộ não người- một dạng vật chất có tổ chức cao nhất- thì ý thức mới được ra đời. [4] Khi bộ não xảy ra vấn đề, ý thức cũng sẽ bị ảnh hưởng. Ý thức được tạo ra bởi thế giới tự nhiên và xã hội bên ngoài con người, hay có thể hiểu rằng ý thức là sự tương tác giữa bộ não con người và thế giới khách quan. Ngoài ra, ý thức mang nguồn gốc xã hội là lao động và ngôn ngữ như đã đề cập. Nhờ có lao động mà các giác quan của con người phát triển phản ánh tinh tế hơn đối với hiện thực. Ngôn ngữ là cầu nối để trao đổi kinh nghiệm, biểu đạt tình cảm, là phương tiện thể hiện ý thức. Từ đó cho 9

ta thấy rằng nguồn gốc của xã hội có ý nghĩa quyết định hơn cho sự ra đời của ý thức. Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.[5] Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của nó cũng được quyết định bởi vật chất. Những tri thức về thế giới gồm cả tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận đều là sự phản ánh những cái vốn có từ thế giới bên ngoài. Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.[6] Bản chất của ý thức có hai thuộc tính không tách rời là phản ánh và sáng tạo. Những hoạt động thực tiễn là cơ sở để cho ý thức được hình thành và phát triển, trong đó ý thức phản ánh để sáng tạo và sáng tạo để phản ánh. Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động và phát triển của ý thức.[7] Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất vậy nên khi vật chất thay đổi sẽ kéo theo ý thức cũng thay đổi. Trong đời sống xã hội, sự phát triển của kinh tế quy định sự phát triển của đời sống văn hóa. Xã hội phát triển càng cao, điều kiện vật chất thay đổi thì đời sống tinh thần sẽ ngày càng phong phú, đa dạng. Ví dụ, trong xã hội nguyên thủy, đời sống vật chất hết sức thấp kém thì đời sống tinh thần cũng bị giới hạn.Trong điều kiện đó chưa thể có lý luận, càng chưa thể có các lý thuyết khoa học. Khi lực lượng sản xuất phát triển, tạo ra sự phân công giữa lao động trí óc và lao động chân tay, lý luận mới ra đời. 1.3.2.Vai trò của ý thức với vật chất Dù khẳng định vật chất quyết định ý thức nhưng các nhà theo CNDVBC không xem thường vai trò của ý thức bởi họ cho rằng ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.[8] Ý thức của con người, vậy nên sự tác động trở lại vật chất của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn con người. Trên thực tế, mọi hoạt động của con người đều 10

do ý thức chỉ đạo nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan để trên cơ sở ấy con người xác định được mục tiêu của mình, từ đó đề ra phương hướng, lập kế hoạch, lựa chọn phương pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu đó. Ý thức chỉ đạo, hướng dẫn con người trong thực tiễn, do đó nó có thể quyết định hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai khuynh hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo. Nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất. 1.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận và ý nghĩa thực tiễn 1.3.3.1. Ý nghĩa phương pháp luận Do vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải chống lại quan điểm duy ý chí, nên xuất phát từ hiện thực khách quan để tái hiện lại những đặc tính, phẩm chất vốn có của nó mà không phải là đưa ra nhận định, đánh giá chủ quan. V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh “không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược cách mạng” [9]. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ không tránh khỏi mà mắc phải bệnh duy ý chí. Đồng thời con người phải biết phát huy tính năng động của chủ thể trong hoạt động nhận thức. Ngoài ra, do ý thức tác động trở lại vật chất, vì thế chúng ta phải chú ý nâng cao nhận thức của con người. 11

1.3.3.2. Ý nghĩa thực tiễn Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức cho thấy việc tôn trọng khách quan hay cụ thể là tôn trọng các quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật là đặc biệt quan trọng. Hiểu rõ được vấn đề này có thể tránh mắc căn bệnh chủ quan duy ý chí dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Không chỉ vậy, việc áp dụng mối quan hệ này vào việc giáo dụng, nâng cao nhận thức con người sẽ giúp cải tạo thế giới quan, giúp xã hội ngày càng tiến lên phát triển. Ngoài ra, trong hoạt động thực tiễn phải giải quyết đúng đắn giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Bởi nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn xét cho cùng là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật chất, nhân tố vật chất và đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần. Trong mối quan hệ biện chứng đó đời sống vật chất, nhân tố vật chất giữ vai trò quyết định; ngược lại đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần có tính năng động và sáng tạo.

12

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Xuất phát từ thực tế khách quan và bám sát thực tiễn Từ lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức cũng như đúc rút kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta chủ trương luôn xuất phát và tôn trọng hiện thực khách quan, từ đó đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trong Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng đã đề ra chủ trương “đổi mới” một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng” [10]. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn và bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới. Thực tế khách quan của lịch sử loài người đã cho thấy CNXH sẽ thay thế CNTB giống như việc CNTB đã thay thế chế độ phong kiến. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là “bỏ qua việc xác lập hệ thống chính trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.” [11] Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp có nhiều thách thức cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ, nhưng cũng đồng thời là một nước đi đúng đắn thể hiện sự sáng suốt của Đảng. 13

Thực tiễn về việc mô hình CNXH kiểu cũ ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ do sai lầm trên cả phương diên™ lý luân™ và thực tiễn đòi hỏi cần phải đổi mới, cải cách, xây dựng mô hình CNXH hiê ™n thực phù hợp với sự phát triển trong điều kiên™ mới. Viê ™t Nam là ví dụ về một quốc gia đã có những đổi mới, cải cách thành công, trên cơ sở mô hình CNXH phù hợp với điều kiê ™n thực tiễn quốc gia. Chính quan niê ™m đối lâp™ giữa CNXH với CNTB trong thời chiến tranh lạnh đã đẩy đến viê ™c xác định mô hình CNXH không phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, sự phát triển trên thế giới cho thấy, CNXH không đối lâ ™p với CNTB mà là sự kế thừa phát triển theo hình vòng xoáy ốc ở nấc thang cao hơn. “Bản thân thực tiễn phát triển cũng chỉ rõ mô hình kinh tế thị trường không phải là riêng có với CNTB, mà kinh tế thị trường - môt™ phương thức phát triển phù hợp, cho phép phát huy sức mạnh tổng hợp các nguồn lực - là thành tựu phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Và cũng vì vây™ CNXH không phải đối lâ ™p với thị trường, mà chính thông qua nền kinh tế thị trường là phương thức phù hợp cho phép chúng ta huy đô ™ng các nguồn lực xây dựng cơ sở vât™ chất của xã hô ™i mới...


Similar Free PDFs