Tiểu luận kinh tế chính trị PDF

Title Tiểu luận kinh tế chính trị
Author Hà My
Course Kinh tế chính trị
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 25
File Size 498.5 KB
File Type PDF
Total Downloads 377
Total Views 695

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG........***........TIỂU LUẬNMôn: Kinh tế chính trịĐề tàiĐộc Quyền trong nền kinh tế thị trường Tư Bản Chủ Nghĩa. Biểu hiện mới của Độc Quyền trong điều kiện hiện nay, một số bài học cho Việt Nam.Họ và tên: Nguyễn Hà My Mã sinh viên: 2114810037 SBD: 63 Lớp tín chỉ: TRI115(G...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG ……..***……..

TIỂU LUẬN Môn: Kinh tế chính trị Đề tài Độc Quyền trong nền kinh tế thị trường Tư Bản Chủ Nghĩa. Biểu hiện mới của Độc Quyền trong điều kiện hiện nay, một số bài học cho Việt Nam.

Họ và tên: Nguyễn Hà My Mã sinh viên: 2114810037

SBD: 63

Lớp tín chỉ: TRI115(GD1+2-HKI-2122).6 Giảng viên hướng dẫn: Đặng Hương Giang

Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2022

MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU

3

B. PHẦN NỘI DUNG

4

I. Cạnh tranh ở cấp độ độc quyền trong nên kinh tế thị trường

4

1. Nguyên nhân hình thành tư bản độc quyền

4

2. Bản chất của độc quyền tư bản chủ nghĩa

6

3. Tác động của độc quyền trong nền kinh tế thị trường

7

4. Quan hệ cạnh tranh trong trạng thái độc quyền

10

II. Đặc điểm kinh tế của độc quyền trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa 11 1. Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung lớn

11

2. Sức mạnh của tổ chức độc quyền do tư bản và hệ thống tài phiệt chi phối 12 3. Xuất khẩu tư bản trở nên phổ biến

13

4. Cạnh tranh để phân chia thị trường thế giới là tất yếu giữa các tập đoàn độc quyền 14 5. Lôi kéo, thúc đẩy chính phủ vào việc phân chia, phân định khu vực lãnh thổ ảnh hưởng là cách thức để bảo về lợi ích độc quyền 15 III. Biểu hiện mới của độc quyền trong điều kiện hiện nay

16

IV. Một số bài học cho Việt Nam

20

1. Độc quyền ở Việt Nam hiện nay

20

2. Một số giải pháp cho Việt Nam

21

C. PHẦN KẾT LUẬN

24

TÀI LIỆU THAM KHẢO

25

2

A.

PHẦN MỞ ĐẦU

Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, Karl Marx và Friedrich Engels đã dự báo rằng: tự do cạnh tranh sẽ dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền. Như vậy, sự ra đời, hình thành của chủ nghĩa tư bản là tất yếu vì: do thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho lực lứợng sản xuất phát triển, hình thành ngày càng nhiều nghành mới,, đòi hỏi những hinh thức kinh tế tổ chức mới. Bên cạnh đó, còn có sự xuất hiện của khủng hoảng kinh tế, cạnh tranh khốc liệt, sự hình thành và phát triển các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, nhờ đó mà các công ty cổ phần và quan hệ tín dụng phát triển vô cùng mạnh mẽ. Mặt khác, các công ty có lưc lượng lớn, liên tục cạnh tranh khốc liệt với nhau, khó phân thắng bại nên từ đó họ có xu hướng thỏa hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền. Để hiểu rõ hơn về Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền, bài tiểu luận với đề tài: “Nguyên nhân hình thành và những đặc điểm kinh tế của Độc Quyền trong nền kinh tế thị trường Tư Bản Chủ Nghĩa. Biểu hiện mới của Độc Quyền trong điều kiện hiện nay và một số bài học cho Việt Nam” sẽ làm sáng tỏ vấn đề này, thông qua đó ta thấy ý nghĩa của độc quyền trong giải quyết các vấn đề ở Việt Nam hiện nay. Bài tiểu luận đã được hoàn thành, tuy nhiên do tầm hiểu biết còn hạn hẹp nên những tìm hiểu và phân tích của em không tránh được một số những sai sót, em rất mong nhận được sự bổ sung đóng góp ý kiến từ cô để bài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô. Sinh viên thực hiện: 3

Nguyễn Hà My

B.

PHẦN NỘI DUNG

I. Cạnh tranh ở cấp độ độc quyền trong nên kinh tế thị trường Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, có khả năng thâu tóm việc sản xuất và tiêu thụ một số hàng hóa, có khả năng định giá cả độc quyền, nhằm thu về lợi nhuận độc quyền cao. 1. Nguyên nhân hình thành tư bản độc quyền Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong nền kinh tế thị trường các nước tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện các tổ chức độc quyền bởi những nguyên nhân sau đây: Thứ nhất, sự phát triển các lực lượng sản xuất thúc đẩy các tổ chức độc quyền. Dưới tác động của tiến bộ khoa học, đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng dụng những kỹ thuật hiện đại vào quá trình sản xuất. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có nguồn vốn lớn, đa số doanh nghiệp khó có thể đáp ứng ngay được. Vì vậy, họ đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trong sản xuất, qua đó hình thành các doanh nghiệp với quy mô lớn. Vào khoảng cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học mới xuất hiện như: -

Lò luyện kim mới

-

Các máy móc mới như: động cơ diezen; máy phát điện; phương tiện vận

tải mới như: xe hơi, tàu hỏa, … Những thành tựu khoa học này, một mặt làm xuất hiện những ngành mới đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao quy mô sản xuất, một mặt khác là thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy, tập trung sản xuất. Cùng với đó là sự tác động của các quy luật kinh ngày càng mạnh mẽ sẽ làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội thei hướng tập trung sản xuất quy mô lớn. 4

Thứ hai, do cạnh tranh gay gắt làm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản, còn các doanh nghiệp lớn vẫn tồn tại được nhưng mà bị suy yếu. Để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển họ sẽ phải liên kết với nhau để tập trung sản xuất, tập trung phát triển, nhờ đó phát triển quy mô sản xuất ngày càng lớn hơn. Thứ ba, do khủng hoảng sự phát triển của hệ thống tín dụng. Cuộc khủng hoảng kinh tế lớn năm 1873 làm phá sản hàng loạt các doanh nghiệp trong đó có cả các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp lớn. Do vậy để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải đẩy nhanh quá trình tập trung và hình thành các doanh nghiệp với quy mô lớn. Sự khủng hoảng của các hệ thống tín dụng như một bước đệm mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, hình thành các công ty cổ phần, từ đó là bước đầu tiên cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền. P. Samuelson đã bàn về độc quyền: “độc quyền là hiện tượng các hãng cam kết lại, thỏa thuận cùng nhau quy định mức giá và sản phẩm làm ra, chia nhau thị trường hoặc cùng nhau vạch ra các quyết định kinh doanh”. Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền thức chất là nhờ vào: - Lao động của công nhân trong các xí nghiệp độc quyền hay các lao động không công của công nhân trong các xí nghiệp ngoài độc quyền. - Giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua thiệt trong quá trình cạnh tranh; hay với các nước tư bản và các nước thuộc địa thì đó là lao động thặng dư hay một phần lao động tất yếu của người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động. Giá cả độc quyền là giá của hàng hoá, dịch vụ chỉ do một tổ chức, cá nhân bán, mua trên thị trường; hoặc là giá hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, 5

cá nhân, doanh nghiệp liên kết với nhau, chiếm lĩnh phần lớn thị phần độc quyền trên thị trường, có sức mạnh chi phối giá cả thị trường. Vì độc quyền là nhà cung cấp duy nhất nên họ có thể đặt bất kỳ giá nào họ muốn. Đó gọi là ấn định giá. Họ có thể làm điều này bất kể nhu cầu người dùng vì họ biết người tiêu dùng không có lựa chọn nào khác. Điều này đặc biệt đúng khi nhu cầu không đổi đối với hàng hóa và dịch vụ. Đó là khi mọi người không có nhiều sự lựa chọn. Các tổ chức độc quyền luôn áp đặt giá cả cao khi bán và giá thấp khi mua. Như vậy, giá cả độc quyền gồm có giá cả độc quyền cao (khi bán) và giá cả độc quyền thấp khi (khi mua) Ví dụ về giá cả độc quyền như: -

Bill Gate, chủ tịch tập đoàn Microsoft, là người phát minh sáng

chế phần mềm Microsoft Office. Nhờ bằng phát minh sáng chế này mà tập đoàn Microsoft đã trở thành tập đoàn độc quyền trong việc cung cấp phần mềm này ở Mỹ. Chính vì vậy nên Microsoft có thể đưa ra giá cả độc quyền cho phần mền Microsoft Office. -

Nam Phi được sở hữu những mỏ kim cương chiếm phần lớn sản

lượng của thế giới và do đó quốc gia này có vị trí gần như độc quyền trên thị trường kim cương. Vì vậy Nam phi có thể kiểm soát giá cả của kim cương để khi bán với giá cao và khi mua với giá thấp. -

Khi giá xăng tăng cao. Một số lái xe có thể chuyển sang phương

tiện giao thông đại chúng hoặc xe đạp, nhưng hầu hết không thể. 2. Bản chất của độc quyền tư bản chủ nghĩa Về bản chất thì độc quyền là một bước tiến lớn của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. 6

Sự phân hóa giữa các nhà tư bản chưa thực sự sâu sắc ở chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, nên quy luật thống trị của thời kỳ này là quy luật lợi nhuận bình quân, còn trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật tồn tại chủ yếu là quy luật lợi nhuận độc quyền. Sự hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền không làm thay đổi bản chất vốn có của chủ nghĩa tư bản. Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một hình thái biến tướng, khuếch đại của quy luật giá trị thặng dư. 3. Tác động của độc quyền trong nền kinh tế thị trường Tác động của độc quyền, dù ở trình độ độc quyền tư nhân hay độc quyền nhà nước thì luôn tồn tại hai mặt trái ngược nhau, thể hiện ở mặt tích cực và tiêu cực. a. Tác động tích cực Thứ nhất, độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học kĩ thuật, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật. Các tổ chức độc quyền có khả năng tập trung được các nguồn lực, đặc biệt là các nguồn lực tài chính trong việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học, thúc đẩy tiến bộ khoa học. Tuy nhiên đây là khả năng, còn việc có thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào rất nhiều vào mục đích của các tổ chức độc quyền. Ví dụ như doanh nghiệp A qua quá trình tích tụ sản xuất đã tập trung được 4 tỷ đồng tuy nhiên mục đích của họ không phải là phát triển khoa học kĩ thuật mà dùng để đi đầu tư vào các dự án khác. Thứ hai, độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động, cường độ lao động, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân các tổ chức độc quyền.

7

Đó là kết quả của việc tập trung sản xuất và liên minh giữa các doanh nghiệp góp phần thúc đẩy việc ứng dụng các kĩ thuật tiên tiến, phương pháp hiện đại vào quá trình sản xuất. Nhờ đó, giúp tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, do đó nâng cao năng lực cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong các hoạt động kinh doanh. Ví dụ như doanh nghiệp A hoàn thành việc ứng dụng hệ thống tưới tiêu tự động vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, doanh nghiệp B hoàn thành việc nghiên cứu giống cây trồng tốt, có năng suất cao, khả năng chống chịu tốt. Khi 2 doanh nghiệp đó liên minh với nhau thì có thể áp dụng thành tựu khoa học kĩ thuật của nhau trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhờ đó làm tăng năng suất, giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Thứ ba, độc quyền tạo được sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng sản xuất lớn hiện đại. Độc quyền có điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế trọng tâm, mũi nhọn bởi nhờ ưu thế tập trung được sức mạnh kinh tế to lớn vào trong tay mình, đặc biệt là sức mạnh về tài chính. Chính vì vậy, độc quyền thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng sản xuất tập trung, quy mô lớn, hiện đại. Ví dụ, sẽ không có ý nghĩa gì nếu như có nhiều công ty nhỏ cùng cung cấp dịch vụ nước máy cùng một lúc, vì những công ty nhỏ này sẽ trùng lặp đầu tư và cơ sở hạ tầng. Trong trường hợp đó, xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn làm cho việc chỉ có một công ty độc quyền hoạt động sẽ hiệu quả hơn. b. Tác động tiêu cực

8

Thứ nhất, độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh không hoàn hảo gây thiệt hại cho người tiêu dùng trong xã hội. Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, do sự thống trị của độc quyền và các nhà tư bản luôn đặt mục tiêu về lợi nhuận lên trên. Mặc dù theo phân tích như trên, độc quyền giúp nâng cao năng suất sản xuất, giảm chi phí sản xuất hàng hóa, tuy nhiên để tối ưu lợi nhuận, các doanh nghiệp thường bán hàng hóa với mức giá cao hơn và giá mua thấp, thể hiện sự trao đổi không ngang giá. Chính vì vậy, độc quyền đã gây ra một số thiệt hại cho người tiêu dùng. Thứ hai, độc quyền có thể kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát triển kinh tế, xã hội. Như đã nói ở trên, độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học kĩ thuật, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật. Tuy nhiên đây chỉ là khả năng, việc đầu tư vào nghiên cứu khoa học, kĩ thuật được các nhà tư bản thực hiện khi các công trình nghiên cứu khoa học kĩ thuật đó có vị trí độc quyền không có nguy cơ bị lung lay. Chính vì vậy, mặc dù có nguồn lực về tài chính nhưng các tổ chức độc quyền không tích cực trong việc đầu tư các nghiên cứu, phát minh, sáng chế khoa học kĩ thuật. Một nghiên cứu năm 2017 của Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia cho thấy các doanh nghiệp Hoa Kỳ đã đầu tư ít hơn dự kiến kể từ năm 2000 do sự cạnh tranh giảm sút. Điều đó đúng với các công ty cáp cho đến khi các ăng-ten đĩa vệ tinh và dịch vụ phát trực tuyến phá vỡ sự nắm giữ của họ trên thị trường. Độc quyền tạo ra lạm phát. Vì họ có thể đặt bất kỳ giá nào họ muốn, họ sẽ tăng chi phí cho người tiêu dùng. Nó được gọi là lạm phát do chi phí đẩy. Một ví dụ điển hình về cách thức hoạt động của nó là Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ. 12 quốc gia xuất khẩu dầu trong OPEC hiện kiểm soát giá 46% lượng dầu sản xuất trên thế giới. 9

Thứ ba, đối với độc quyền nhà nước bị chi phối bới nhóm lợi ích cục bộ còn đối với độc quyền tư nhân thì chỉ bị chi phôi với các quan hệ, xã hội sẽ gây ra hiện tượng làm tăng sự phân hóa giàu nghèo Tư bản độc quyền thì nguồn lực sẽ tập trung chủ yếu vào các công ty, doanh nghiệp lớn vì vậy trong quá trình sản xuất họ có thể tạo ra nguồn lớn giá trị thặng dư, họ sẽ càng thêm giàu có. Tuy nhiên, những lợi nhuận mà các nhà tư bản tạo ra được là dựa trên sự bóc lột thậm tệ đối với các công nhân và người lao động. Một nghiên cứu cho thấy: nhóm người sở hữu nhiều tài sản trở thành thế lực thống trị xã hội, kinh tế và chính trị của quốc gia, khoảng cách giữa giàu và nghèo ngày càng nới rộng thể hiện qua tỷ lệ 1% dân số nắm giữ 99% tài sản, còn 99% dân số nắm giữ 1% tài sản... Tình hình kinh tế ngày càng trở nên khó khăn, lạm phát và lương thấp, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng cao, an sinh xã hội giảm sút, tệ kỳ thị chủng tộc còn hoành hành... là thực trạng chung tại không ít nước tư bản phát triển. Chưa kể, còn phải nhắc đến hàng loạt vấn đề nổi cộm và ngày càng trở nên phổ biến khác như: mối đe dọa của khủng bố như hệ quả trực tiếp từ hành động can thiệp quân sự ở nước ngoài, hay ô nhiễm môi trường, tính mạng con người bị đe dọa vì súng đạn sử dụng bừa bãi (theo FBI - Cục Ðiều tra liên bang Mỹ, năm 2015 tại Mỹ có 36.000 người bị chết vì súng đạn, thì năm 2016 tăng lên hơn 38.000 người) ... 4. Quan hệ cạnh tranh trong trạng thái độc quyền Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, Karl Marx và Friedrich Engels đã dự báo rằng: tự do cạnh tranh sẽ dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền. Vì vậy, có thể hiểu độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do. Tuy nhiên sự xuất hiện

10

của độc quyền không khiến cho cạnh tranh biến mất, mà trái lại nó làm cạnh trạnh trở nên phong phú, đa dạng và gay gắt hơn. Trong nền kinh tế tồn tại nhiều quan hệ cạnh tranh, như là: - Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các doanh nghiệp ngoài độc quyền. - Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. - Cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Ngày nay, cạnh tranh và độc quyền luôn tồn tại song hành với nhau trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, mức độ khốc liệt của cạnh tranh và mức độ độc quyền hóa phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh cụ thể của các nền kinh tế khác nhau. II. Đặc điểm kinh tế của độc quyền trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, V.I.Lenin đã khái quát 5 đặc điểm của độc quyền tư bản chủ nghĩa: 1. Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung lớn Do số lượng doanh nghiệp ít nên có thể dễ dàng thỏa thuận với nhau, tuy nhiên các doanh nghiệp đó có quy mô lớn, kỹ thuật cao nên cạnh tranh vô cùng gay gắt, khó đánh bại, từ đó họ thường có khuynh hướng thỏa hiệp với nhau để nắm lấy vị trí độc quyền. Ban đầu, các tổ chức độc quyền liên kết theo chiều ngang, tức là chỉ liên kết với các doanh nghiệp cùng ngành, nhưng về sau họ đã phát triển thành liên kết theo chiều dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Trong lịch sử, các hình thức tổ chức độc quyền cơ bản từ thấp đến cao gồm: 11

- Cartel là hình thức tổ chức độc quyền trong đó các xí nghiệp tư bản lớn ký các hiệp định thỏa thuận. Khi tham gia Cartel các xí nghiệp vẫn độc lập về sản xuất và lưu thông, họ chỉ cam kết đúng hiệp nghị đã ký. Vì vậy đây là một liên minh không vững chắc. Một trong những Cartel rất nổi tiếng có thể lấy làm ví dụ là OPEC, Tổ chức các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ. - Syndicate là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định Cartel. Các xí nghiệp tham gia Syndicate vẫn giữ độc lập về việc sản xuất nhưng trong lưu thông thì mọi việc mua, bán do một ban quản trị thống nhất. - Trust là hình thức độc quyền cao hơn Cartel và Syndicate, trong tổ chức này thì cả việc sản xuất, tiêu thụ hàng hóa đều do một ban quản trị chung thống nhất quản lý. Những cổ đông là các xí nghiệp tư bản, họ tham gia nhằm thu lợi nhuận cao theo số lượng cổ phần mà họ nắm giữ. - Consortium là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ quy mô lớn hơn các hình thức kể trên, trong đó không chỉ bao gồm các xí nghiệp mà còn có cả các Syndicate, Trust liên kết theo cả chiều ngang và chiều dọc. 2. Sức mạnh của tổ chức độc quyền do tư bản và hệ thống tài phiệt chi phối Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp, trong các ngân hàng cũng có các quá trình tích tụ, tập trung hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Qua trình này tương tự với quá trình tập trung sản xuất trong công nghiệp, do các ngân hàng vừa và nhỏ bị phá sản hoặc thôn tính, trong hoàn cảnh đó, các ngân hàng vừa và nhỏ phải tự sát nhập vào các ngân hàng lớn hoặc phải phá sản. Quá trình này đã thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.

12

Ngân hàng ban đầu chỉ là trung gian thanh toán và tín dụng thì nay đã nắm hầu hết lượng tiền tệ của xã hội, khống chế hoạt động của nền kinh tế. các độc quyền ngân hàng đưa đại diện của mình vào các cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp hoặc trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Tuy nhiên, có qua thì có lại, các độc quyền công nghiệp cũng xâm nhập tương ứng trở lại vào ngân hàng, họ cổ phần của các ngân hàng lớn, chi phối hoạt động của các ngân hàng lớn đó. Cả hai quá trình độc quyền công nghiệp và độc quyền ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và làm nảy sinh một loại tư bản mới là tư bản tài chính. Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự xuất hiện của một nhóm nhỏ nhà tư bản đặc biệt giàu có thống trị toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, họ được gọi là những tài phiệt (hay đầu sỏ tài chính, trùm tài chính). Một nhà tài phiệt lớn mua số cổ phiếu khống chế, chi phối một công ty lớn nhất gọi là “công ty mẹ”, “công ty mẹ” tiếp tục mua cổ phiếu khống chế một công ty nhỏ hơn là “công ty con”, “công ty con” lại chi phối các “công ty cháu”, … Quá trình này được gọi là “chế độ tham dự”. Các tài phiệt sử dụng nó để thể hiện sự thống trị của mình. Ngoài “chế độ tham dự”, các tài phiệt còn sử dụng thủ đoạn như lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán, đầu cơ ruộng đất, … 3. Xuất khẩu tư bản trở nên phổ biến V.I.Lenin vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

13

Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Còn xuất khẩu tư bản là mang tư bản đầu tư ở nước ngoài để sản xuất giá trị thặng dư tại nước sở tại. Xuất khẩu tư bản có thể thực hiện dưới hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp. - Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao biến chúng thành một phần chi nhánh của các “công ty mẹ”. - Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu lợi tức, mua cổ phần cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ khác, các định chế tài chính trung gian, … Việc xuất khẩu tư bản là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch c...


Similar Free PDFs