tiểu luận kinh tế chính trị PDF

Title tiểu luận kinh tế chính trị
Author Tú Trần
Course Kinh tế chính trị Mác-Lênin, Viện đào tạo Chất lượng cao
Institution Trường Đại học Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 16
File Size 338.8 KB
File Type PDF
Total Downloads 112
Total Views 387

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINHKHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊHọ và tên SV - Mã số SV - Mã nhóm HPTrần Thanh Tú - 2051210081 - 010100510612TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNINTÊN ĐỀ TÀINhững mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường,liên hệ thực tiễn trong nền kin...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Họ và tên SV - Mã số SV - Mã nhóm HP Trần Thanh Tú - 2051210081- 010100510612 TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

TÊN ĐỀ TÀI Những mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường, liên hệ thực tiễn trong nền kinh tế Việt Nam

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021

Lời mở đầu Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp. Muốn thoát khỏi tình trạng đó con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế . Sau đại hôị Đảng VI năm 1986 nền kinh tế nước ta chuyển sang một hướng đi mới :phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa- đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Chính vì vậy, việc nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xa hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó là công việc vô cùng thiết thực và cần thiết, có ý nghĩa to lớn đối với mỗi nhà nghiên cứu và phân tích kinh tế. Xuất phát từ tầm quan trọng đó nên tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Những mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường, liên hệ thực tiễn trong nền kinh tế Việt Nam. Đây là một đề tài rất rộng mang tính khái quát cao, mặc dù rất cố gắng, song bài viết của tôi sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót về nội dung cũng như hình thức. Kính mong các thầy cô xem xét và góp ý để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.

Mục lục Lời mở đầu Phần 1: Những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường I.Quá trình hình thành kinh tế thị trường 1.Kinh tế thị trường 2.Quá trình hình thành kinh tế thị trường gắn liền với quá trình II.Các bước phát triển kinh tế thị trường 1.Từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá giản đơn 2.Từ kinh tế Hàng hoá giản đơn lên kinh tế thị trường tự do III. Quy luật cung cầu Phần 2:Sự hình thành, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xa hội chủ nghĩa ở Việt Nam I.Sự cần thiết khách quan phải chuyển đổi 1.Cơ chế cũ và hạn chế của nó 2.Chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xa hội chủ nghĩa II.Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1.Về vấn đề sở hữu 2.Về quan hệ phân phối 3.Cơ chế quản lý và vận hành nền KTTT định hướng XHCN III. Mặt tích cực của nền kinh tế thị trường 1. Hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng 2. Hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung-cầu quyết định sự vận hành của nền kinh tế thị trường 3. Tạo sự cạnh tranh tự do – là nguyên tắc vận hành của nền kinh tế thị trường 4. Vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước IV. mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường V. Giải pháp khắc phục 1.Giải pháp khắc phục khó khăn 1.1.Mở rộng phân công và phân công lại lao động xã hội 1.2Xây dựng cơ sở hạ tầng 1.3.Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng KH-Công nghệ

Phần 1 Những vấn đề chung về kinh tế thị trường I. Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường. 1. Kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế – xa hội. Kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Các qui luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, qui định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, và sản xuất cho ai. Đây là một kiểi tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao nhất của kinh tế hàng hoá. Khái niệm kinh tế thị trường phản ánh trạng thái tồn tại vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, thật ra kinh tế thị trường là sản phẩm của sự phát triển khách quan của xa hội loài người. Nền kinh tế thị trường có khả năng “tự động” tập hợp trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người hướng tới lợi ích chung của xa hội, do đó nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, góp phần thúc đẩy sự phát triển của một xa hội. 2. Quá trình hình thành kinh tế thị trường gắn với quá trình xã hội hoá sản xuất thông qua các quá trình: 2.1. Quá trình tổ chức phân công và phân công lại đối với lao động xã hội. Sản xuất bao giờ cũng mang tính chất xa hội.Tính xa hội của sản xuất không chỉ tồn tại trong buổi đầu hình thành xa hội con người, mà còn phát triển cao hơn trong điều kiện của xa hội hiện đại. Xa hội hoá sản xuất là sự liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệt thành quá trình kinh tế - xã hội, tồn tại, hoạt động và phát triển liên tục như một quá hệ thống hữu cơ, đó là quá trình kinh tế khách quan phù hợp với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, phản ánh xu thế phát triển tất yếu mang tính chất xã hội của sản xuất. Xã hội hoá được biểu hiện ở trình độ phát triển của sự phân công và phân công lại lao động xã hội . Phân công lao động xã hội là việc phân chia người sản xuất vào những nghành nghề khác nhau của xã hội, là cơ sở của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Theo dòng lịch sử, phân công lao động phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, phân công lao động tạo ra sự hợp tác và trao đổi lao động, hình thức đầu tiên là hiệp tác giản đơn. Với hình thức này, lần đầu tiên lao động được xã hội hoá, “ người lao động tổng hợp” xuất hiện, tiếp đến là sự phân công trong công trường thủ công gắn liền với sự chuyên môn hoá công cụ thủ công dựa trên tay nghề của người lao động. Máy móc ra đời là một nấc thang mới của sự phát triển lực lượng sản xuất là nền sản xuất dựa trên cơ khí, khi mà hiệp tác lao động thực sự trở thành " tất yếu kỹ thuật" lấy máy móc làm chủ thể. Đến lượt mình, đại công nghiệp cơ khí thúc đẩy sự phân công lao động và hiệp tác lao động trên độ mới cao hơn. 2.2. Quá trình đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất.

Quá trình này gắn liền với điều kiện sản xuất hàng hoá. Các hình thức từ sở hữu phát triển từ thấp đến cao, từ sở hữu riêng độc lập tới sở hữu chung, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước, của các hình thức tổ chức sản xuất từ công ty tư nhân tới công ty liên doanh đến công ty trách nhiệm hữu hạn...từ hình thức cac-ten tới xanh-đi-ca, tơrớt, công-xac-xi-on, từ những công ty quốc gia đến công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia có các chi nhánh ở nhiều nước. Sở hữu về tư liệu sản xuất là hình thái xa hội của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất, một nội dung chủ yếu trong hệ thống các quan hệ sản xuất. Vì vậy hình thức, quy mô, phạm vi cũng như tính đa dạng của sở hữu không phải do ý muốn chủ quan của con người quyết định mà là một quá trình phát triển lịch sử tự nhiên. 2.3. Quá trình tiến hành cách mạng công nghệ làm xuất hiện thị trường mới Xa hội hoá sản xuất biểu hiện ở mối liên hệ giữa các ngành, các nghề, các vùng ngày càng cao và chặt chẽ. Mối liên hệ này không chỉ diễn ra trên lĩnh vực lưu thông mà còn diễn ra trong lĩnh vực đầu tư, hợp tác khoa học- công nghệ và dưới các hình thức liên doanh liên kết đa dạng, phong phú. Quá trình hình thành kinh tế thị trường gắn liền với quá trình cách mạng khoa học-công nghệ làm xuất hiện thị trường đầu vào sản xuất. Công nghệ là tinh hoa trí tuệ, là lao động sáng tạo của con người để phục vụ con người. Chính công nghệ là chìa khoá cho sự phát triển, là cơ sở và là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xa hội dựa trên nèn tảng phát triển công nghệ bền vững và tăng trưởng cao. Công nghệ làm biến đổi cơ cấu xa hội đồng thời nó cũng là kết quả của sự thay đổi xa hội, sự phát triển khoa học- công nghệ làm xuất hiện thị trường vốn, thị trường lao động kỹ thuật. II. Các bước phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường phát triển qua 3 bước: Từ kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá giản đơn; từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường tự do; từ kinh tế thị trường tự do sang kinh tế hỗn hợp. 1.Từ kinh tế tự nhiên phát triển sang kinh tế hàng hoá giản đơn. Trong nền kinh tế tự nhiên, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế. Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất hợp thành(các gia đình nông dân gia trưởng, các công xã nông nông thôn, các lanh địa phong kiến) và mỗi đơn vị kinh tế ấy làm đủ mọi công việc đẻ tạo ra sản phẩm cuối cùng. Trong các nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu; nông nghiệp là ngành sản xuất cơ bản, công cụ kỹ thuật canh tác lạc hậu dựa vào chân tay là chủ yếu chỉ có một số trang trại của địa chủ hoặc phường hội mới có hiệp tác lao động giản đơn. Đây chính là mô hình kinh tế đóng kín, không có sự giao lưu sản phẩm với bên ngoài, nó tồn tại suốt một thời kỳ dài cho đến chế độ phong kiến. Bước đi chủ yếu của sản xuất tự cung, tự cấp là tiến lên sản xuất hàng hoá giản đơn. Điều kiện cho quá trình chuyển hoá này là sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Phân công xa hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá. Sản xuất hàng hoá ra đời lúc đầu dưới hình thức sản xuất nhỏ, giản đơn nhưng là một bước tiến trong lịch sử phát triển xa hội. Sản xuất hàng hoá giản đơn là sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất trong điều kiện kỹ thuật thủ công lạc hậu. Khi trình độ lực lượng sản xuất phát triển cao hơn, sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển sang sản xuất hàng hoá quy mô lớn hơn. Quá trình đó diễn ra trong thời kỳ quá độ từ xa hội phong kiến lên xa hội tư bản.

2.Từ kinh tế hàng hoá giản đơn lên kinh tế thị trường tự do. Nền kinh tế thị trường tự do ra đời từ từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn nhưng có những đặc điểm cơ bản khác với nền kinh tế hàng hoá giản đơn. ở đây người sản xuất trực tiếp là công nhân làm thuê, không phải là người sở hữu tư liệu sản xuất mà tư liệu sản xuất là của nhà tư bản. Sản phẩm lao động do những công nhân làm ra thuộc về nhà tư bản. Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tác động của qui luật giá trị dẫn tới sự phát triển tự phát của lực lượng sản xuất. Do tác động tự phát đó, do sự biến động của giá cả, cạnh tranh đa làm phân hoá những người sản xuất hàng hoá và trong giai đoạn phát triển lịch sử nhất định làm nảy sinh chủ nghĩa tư bản. Kinh tế hàng hoá giản đơn đẻ ra chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá trong thời kỳ này cạnh tranh gay gắt. Trong điều kiện sản xuất qui mô lớn, các nguồn lực tự nhiên ngày càng khan khiếm buộc người sản xuất phải không ngừng cải tiến đổi mơí kỹ thuật, công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, sử dụng tiết kiệm các yếu tố sản xuất. Đây là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển nền sản xuất hàng hoá. III. Quy luật cung cầu Cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà người tiêu dùng mua trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, thu nhập và các biến số kinh tế xác định. Người tiêu dùng ở đây bao gồm dân cư, các doanh nghiệp nhà nước và cả nước ngoài. Tiêu dùng bao gồm cả tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân. Cung là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà chủ thể kinh tế đem bán ra thị trường trong một thời kỳ nhất định, tương ứng với mức giá cả, khả năng sản xuất, chi phí sản xuất xác định. Quan hệ cung cầu là quan hệ giữa những người bán và những người mua, giữa những người sản xuất và người tiêu dùng; là những quan hệ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá. Không phải chỉ có giá cả ảnh hưởng tới cung cầu mà quan hệ cung cầu ảnh hưởng tới việc xác định giá cả trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu, người bán phải giảm gía, giá cả có thể thấp hơn giá trị hàng hoá . Khi cung nhỏ hơn cầu, người bán có thể tăng giá, giá cả có thể cao hơn giá trị. Khi cung bằng cầu, người bán sẽ bán hàng hoá theo đúng giá trị giá cả bằng giá trị. Khi đó cân bằng thị trường xuất hiện tại mức giá mà tại đó lượng cung và cầu bằng nhau. Mức giá đó gọi là giá cân bằng, sản lượng đó gọi là sản lượng cân bằng.

Phần 2 Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xa hội chủ nghĩa ở Việt nam. I.Sự cần thiết khách quan hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 1.Cơ chế cũ và hạn chế của nó.

Cơ chế cũ là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đó là cơ chế mà ở đó Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm. Các doanh nghiệp căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước từ đó lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho mình. Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các cơ quan nhà nước can thiệp qúa sâu vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì đối với các quyết định của mình, từ đó làm cho các doanh nghiệp thụ động không phát huy được tính sáng tạo, các quan hệ kinh tế bị hiện vật hoá. Quan hệ hàng hoá tiền tệ chỉ mang tính hình thức, bỏ qua hiệu quả kinh tế, quản lý kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát, giao nộp. Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều khâu trung gian nhưng kém năng lực. Cơ chế tập trung bao cấp đa góp phần cho thắng lợi giải phóng đất nước, nhưng sau khi điều kiện kinh tế xa hội đathay đổi. Đặc biệt khi trình độ phát triển kinh tế đa nâng cao lên rất nhiều, cơ cấu càng phức tạp thì những khuyết điểm bên trong nền kinh tế kế hoạch ngày càng bộc lộ. Cuộc chạy đua theo mục tiêu chế độ quốc hữu hoá làm loại bỏ hoặc hạn chế chế độ kinh tế phi quốc hữu, kiềm chế cạnh tranh nên khó làm sống động nền kinh tế. Trên thực tế kinh tế kế hoạch lấy chủ nghĩa bình quân làm phương châm phân phối cho nên đa kìm ham tích cực và sáng tạo của người sản xuất kinh doanh. Chúng ta thực hiện phân phối theo lao động trong điều kiện chưa cho phép. Trong hoạt động kinh tế việc nhà nước quản lý hành chính bằng mệnh lệnh trực tiếp, chính quyền và xí nghiệp không tách riêng, đầu vào cao đầu ra thấp đa trở thành những căn bệnh cũ của nền kinh tế kế hoạch.Những điều trên đa gây trở ngại cho sự phát triển sản xuất xa hội. Trước tình hình đó việc chuyển đổi nền kinh té nước ta sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn phù hợp với thực tế, qui luật kinh tế và xu thế của thời đại 2.chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xa hội chủ nghĩa. Sau đại hội 6(1986), do đổi mới nói chung và sự đổi mới trong nhận thức xa hội, Đảng ta nhận định rằng để phát triển theo kịp các nước trong khu vực và thế giới thì phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xa hội chủ nghĩa có sụ quản lý của nhà nước. Bởi vì hiện nay ở nước ta, các điều kiện của sản xuất hàng hoá vẫn còn đang tồn tại. Phân công lao động: ở nước ta đang tồn tại hệ thống phân công lao động do lịch sử để lại với nhiều ngành nghề. Với sự phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại, nhiều ngành nghề mới xuất hiện làm cho sự phân công lao động ở nước ta trở nên phong phú hơn, nó tạo điều kiện cho hàng hoá phát triển. ở nước ta cũng đang tồn tại quan hệ sở hữu đa dạng về tư liệu sản xuất và ứng với nó là nền kinh tế nhièu thành phần. Điều đó tạo nên sự độc lập về mặt kinh tế giữa các thành viên, doanh nghiệp. Nó cũng có tác dụng làm cho hàng hoá phát triển. Nền kinh tế thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế là vì: Thứ nhất, khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động dành chính quyền, tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Thực tế có hai loại tư hữu: tư hữu lớn:nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp, đồn điền...của các chủ

tư bản trong và ngoài nước - đó là kinh tế tư bản chủ nghĩa, và tư hữu nhỏ: gồm những người nông dân cá thể, những người buôn bán nhỏ, đó là sản xuất nhỏ cá thể. Thứ hai, sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia, do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan, khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành, các vùng, các doanh nghiệp. Chính sự phát triển không đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết là hình thức, quy mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau. Thứ ba, để phát triển kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, xa hội, nhà nước xây dựng hệ thống những có sở kinh tế mới, hình thành thành phần kinh tế nhà nước. Mặt khác, trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế, quốc hữu hoá hợp tác và đầu tư nước ngoài, nhà nước cùng các nhà nước cùng các nhà tư bản, các công ty trong và ngoài nước, hình thành kinh tế tư bản nhà nước. Việc nhận thức và tổ chức thực hiện trên thực tế các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại nhiều trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất (thủ công, trình độ cơ khí, tự động hoá, tin học hoá...). Vì vậy khi thiết lập quan hệ sở hữu thì cũng phải đa dạng phù hợp ở nước ta hiện nay có thể làm xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác. Tóm lại: Trong thời kỳ quá độ tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là một tất yếu khách quan mà còn có một tác dụng tích cực tolớn đối với sự phát triển của nền kinh tế.Cụ thể là: Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần không những tạo điều kiện sử dụng sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế trong nước mà còn tạo ra môi trường thông thoáng ,thích hợp cho sự thu hút vốn, khoa học kĩ thuật tiên tiến của thế giới . Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần không những tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, đặc biệt là hình thức kinh tế tư bản nhà nước, là “cầu nối” là trung gian cần thiết để chuyển nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ nên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa Từ những tác động tích cực mà hội nghị trung ương lần thứ VI khoá VI chỉ rõ: “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa x• hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, đảm bảo cho mọi người làm ăn theo pháp luật”. Khi cơ chế cũ kìm hãm sự phát triển kinh tế Việt Nam trong nhiều năm. Điều đó đặt ra một yêu cầu khách quan là phải đổi mới cơ chế kinh tế, thay thế cơ chế mới vào cơ chế cũ. Trong khi đó, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đang được áp dụng rộng rai, phổ biến ở nhiều nước trên thế giới và đa đạt được những thành tựu rất đáng quan tâm. Vì vậy, chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước theo định hướng xa hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan. Kinh tế thị trường xa hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xa hội. Đây chính là mô hình kinh tế “mở”, trong đó có sự kết hợp giữa cái chung và cái đặc thù. Cái chung kà nền kinh tế thị trường, cái đặc thù - định hướng xa hội chủ nghĩa. Chúng ta không chủ trương xây dựng mô hình kinh tế thị trường bất kỳ, trừu tượng, càng không chủ trương xây dựng mô hình kinh tế tư bản mà chủ trương xây dựng mô hình kinh tế thị trường

định hướng xa hội chủ nghĩa. Vì vậy, không thể lấy kinh tế thị trường làm chủ đạo mà tất yếu phải lấy định hướng xa hội chủ nghĩa làm chủ đạo. II.Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Nền kinh tế thị trường định hướng xa hội chủ nghĩa cũng có những tính chất chung của nền kinh tế : nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường như quy luật gía trị, quy luật cung cầu, quy luât cạnh tranh ; có chủ thể kinh tế có tính độc lập, tự chủ để có quyền ra những quyết định phi tập trung hoá ; thị trường có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế ; gía cả do thị trường quyết định ; nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô để giảm bớt những “thất bại của thị trường” Nhưng bất cứ nền kinh tế thị trường nào cũng hoạt động trong những điều kiện lịch sử–xa hội của một nước nhất định, nên nó bị chi phối bởi điều kiện lịch sử và đặc biệt là chế độ xa hội của nước đó, và do đó có những đặc điểm riêng phân biệt với nền kinh tế thị trường của các nước khác. Nền kinh tế thị trường định hướng xa hội chủ nghĩa có những đặc trưng sau đây : 1.Về chế độ sở hữu Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu , trong đó sở hữu làm chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hưũ tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức kinh doanh. Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phầ...


Similar Free PDFs