Tiểu luận tiền tệ (lịch sử, nguồn gốc, bản chất, quá trình phát triển) TRI15 PDF

Title Tiểu luận tiền tệ (lịch sử, nguồn gốc, bản chất, quá trình phát triển) TRI15
Author Anh Duc Nguyen
Course Kinh tế chính trị
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 12
File Size 387.7 KB
File Type PDF
Total Downloads 106
Total Views 357

Summary

Download Tiểu luận tiền tệ (lịch sử, nguồn gốc, bản chất, quá trình phát triển) TRI15 PDF


Description

I. Lịch sử ra đời của tiền tệ

Lịch sử hình thành và phát triển của tiền tệ trải qua nhiều giai đoạn mà mỗi giai đoạn lại mang các đặc điểm khác nhau. Trong lịch sử phát triển của loài người, lúc đầu con người sống thành bầy đàn, kiếm ăn một cách tự nhiên, chưa có chiếm hữu tư nhan, chưa có sản xuất và trao đổi hàng hóa nên chưa có tiền tệ. Tuy nhiên ngay từ trong xã hội nguyên thủy đã xuất hiện mầm móng của của sự trao đổi. Lúc đầu trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp vật này lấy vật khác. Giá trị (tương đối) của một vật được xác định bởi giá trị sử dụng của một vật khác duy nhất đóng vai trò vật ngang giá. Khi sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên hơn. Tương ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị mở rộng. Tham gia trao đổi bây giờ không phải là 2 loại hàng hóa mà là một loạt các loại hàng hóa khác nhau. Đây là một bước phát triển mới, tiến bộ so với hình thái giá trị giản đơn. Phân công lao động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi hàng hóa trực tiếp ngày càng bộc lộ các nhược điểm của nó. Các hàng hóa chỉ được trao đổi với nhau khi các người chủ của nó có ý cùng muốn trao đổi, ý muốn trùng khớp. Như vậy cùng với sự phát triển của sản xuất thì trao đổi trực tiếp ngày càng khó khăn và làm cho mâu thuẫn trong lao động, và phân hóa lao động ngày càng tăng. Do đó đòi hỏi phải có một thứ hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung tất ra từ tất cả các thứ hàng hóa khác và các hàng hóa khác có thể trao đổi được với nó. Thích ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị chung. Nhưng trong giai đoạn này, tác dụng của vật ngang giá chung vẫn chưa cụ thể tại một thứ hàng hóa nào trong những vùng khác nhau thì có những thứ hàng hóa khác nhau có tác dụng làm vật ngang giá chung vẫn chưa cụ thể tại một thứ hàng hóa nào. Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện thủ công nghiệp thoát khỏi nông nghiệp làm cho sản xuất hàng hóa phát triển

và thị trường mở rộng. Tình trạng nhiều hàng hóa có tác dụng vật ngang giá chung phát sinh mâu thuẫn với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, thị trường đòi hỏi phải thống nhất một vật ngang giá đơn nhất. Khi vật ngang giá chung cố định ở một loại hàng hóa thì sinh ra hình thái tiền tệ. Khi đó tất cả các loại hàng hóa được biểu hiện giá trị của nó trong một thứ hàng hóa, thứ hàng hóa đó trở thành vật ngang giá chung Như vậy tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và của các hình thái giá trị. Tóm lại tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa II. Sự phát triển của tiền tệ Theo Mác tiền tệ là sản phẩm tự phát, tự nhiên của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi nghiên cứu về tiền Mác viết: "Tiền là một vật được kết tinh, hình thành một cách tự nhiên trong trao đổi". Như vậy tiền đề cho sự ra đời và phát triển của tiền tệ là sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử thoạt đầu người ta trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng. Khi sản xuất càng phát triển, hàng hóa sản xuất ra càng nhiều, nhu cầu sử dụng của con người cũng đi kèm theo. Việc trao đổi hàng lấy hàng gặp nhiều khó khăn. Ví dụ người sản xuất ra lúa cần cái rừu để cuốc đất nhưng người có rừu không cần lúa mà cần vải, việc này buộc người có lúa phải đổi lấy vải và sau đó dùng vải để đổi lấy rừu. Nhu cầu trao đổi càng nhiều hàng hóa thì quá trình trao đổi lòng vòng đó càng phức tạp hơn. Chính vì vậy, người ta đã nghĩ ra tìm những vật làm trung gian cho các cuộc trao đổi đó, đây là vật ngang giá. Lịch sử đã ghi nhận sự phát triển của hình thái giá trị qua bốn giai đoạn:  Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: Khi một hàng hóa ngẫu nhiên phản ánh giá trị của một hàng hoá khác  Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng: khi nhiều hàng hoá đều có khả năng trở thành vật ngang giá để thể hiện giá trị của một hàng hoá nào đó  Hình thái giá trị chung khi một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung để thể hiện giá trị của tất cả các hàng hoá khác. Có nhiều loại hàng hóa đã từng được sử dụng để làm vật ngang giá chung như: gia súc, đồng, bạc, vàng... Mỗi loại vật này đều có một số thuận lợi và bất lợi riêng khi làm phương tiện trao đổi - vật ngang giá chung. Cuối cùng, vật ngang giá chung bằng hàng hóa chỉ được hạn chế trong kim loại quý vì dễ vận chuyển hơn, trong đó chủ yếu là vàng. Khi phần lớn các quốc gia, các vùng đều sử dụng vàng làm vật ngang giá chung trongtrao đổi hàng hóa với nhau (khoảng cuối thế kỷ 19), vàng loại bạc và trở thành vật ngang giá chung - thế giới độc nhất. Trải qua tiến trình phát triển, tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống kinh tế.

III. Bản chất của tiền tệ a.Khái niệm

Tiền tệ là một hàng hóa – hàng hóa đặc biệt, độc quyền đóng vai trò vật ngang giá chung để đo lường, biểu hiện giá trị của các hàng hóa và là phương tiện lưu thông hàng hóa. Sự xuất hiện của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường đã chứng minh rằng: Tiền tệ là phạm trù kinh tế, đồng thời là phạm trù lịch sử. Quá trình xuất hiện của tiền tệ cho ta thấy, tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Điều đó có nghĩa rằng: tiền tệ phát sinh, phát triển và tồn tại cùng với sự phát sinh, phát triển và tổn tại của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Bởi vậy ở đâu còn sản xuất và trao đổi hàng hóa ở đó còn tồn tại tiền tệ và khi nào không còn sản xuất và trao đổi hàng hóa thì lúc đó sẽ không còn tiền tệ nữa. Tiền tệ xuất hiện trong nền kinh tế hàng hóa, đã chứng minh nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế thị trường. Quá trình này thể hiện ở chỗ “cùng với sự chuyển hóa chung của sản phẩm lao động thành hàng hóa, thì hàng hóa cũng chuyển hóa thành tiền tệ”. Vàng trở thành tiền tệ. Vì sao vàng lại trở thành tiền tệ? Vì bản thân kim loại này vốn đã là hàng hóa. Do đó cũng như các hàng hóa khác tiền tệ có hai thuộc tỉnh: Giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng tiền tệ là hàng hóa đặc biệt vì nó có giá trị sử dụng đặc biệt. Đó là giá trị sử dụng xã hội, tiền tệ là thước do giá trị và phương tiện lưu thông cho cả thế giới hàng hóa. Vị trí này cho đến nay chưa có hàng hóa nào thay thế được vàng. Khi đề cập về vấn đề này Karl Marx đã viết: “giá trị sử dụng của hàng hóa bắt đầu từ lúc nó rút ra khỏi lưu thông, còn giá trị sử dụng của tiền tệ với tư cách là phương tiện lưu thông lại chính là sự lưu thông của nó” Khi tiền tệ xuất hiện, thế giới hàng hóa được chia thành hai cực rõ rệt. Một cực là tất cả các hàng hóa thông thường có nhu cầu biểu hiện giá trị của mình ở tiền tệ và các hàng hóa này có thể thỏa mãn được một hoặc một vài nhu cầu nào đó của con người. Còn bên kia – cực đối lập, là tiền tệ – vàng, trực tiếp biểu hiện giá trị các hàng hóa. Vì tiền tệ có thể trao đổi trực tiếp được với mọi hàng hóa trong bất kỳ điều kiện nào, cho nên tiền tệ có thể thỏa mãn được tất cả các nhu cầu của con người. b.Bản chất

Quốc gia nào cũng có những đồng tiền riêng, lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ đã được ghi nhận từ những hoạt động sớm nhất của con người. Ở cuối thời kỳ công xã nguyên thủy, chế độ tư hữu xuất hiện, sản xuất và trao đổi hàng hóa,

tiền tệ đã xuất hiện, việc trao đổi hàng hóa có thể tiến hành trực tiếp hàng đổi hàng hoặc có thể mua bán thông qua tiền tệ. Tiền có biểu hiện ở nhiều thứ khác nhau. Đối với hầu hết các dân tộc tiền là những đồng xu bằng kim loại, những tờ giấy bạc, những tấm thẻ, hoặc là những khoản tiết kiệm ở ngân hàng. Nhưng đối với một số dân tộc trong quá khứ không xa lắm, tiền là những chuỗi hạt, vỏ ốc được xâu lại vì đó là những vật họ coi là có giá trị. Các dân tộc đã từng coi những vật như vậy là tiền bởi vì chúng đều là những phương tiện được thừa nhận và thỏa thuận trong thanh toán. Lịch sử phát triển của tiền tệ đã chứng minh rằng tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Suy cho cùng về bản chất, tiền tệ là vật ngang giá chung làm phương tiện để trao đổi hàng hóa, dịch vụ và thanh toán các khoản nợ. Dưới đây là một số mẫu tiền giấy đang lưu hành trên thế giới

IV.Các chức năng của tiền tệ Thông qua các chức năng của tiền tệ, bản chất của tiền tệ mới được hiểu một cách đầy đủ. Theo Karl Marx, tiền tệ có năm chức năng cơ bản sau đây: a.Chức năng thước đo giá trị

Tiền tệ thực hiện chức năng thước đo giá trị khi giá trị của tiền tệ được sử dụng làm chuẩn để đo lường giá trị của các hàng hóa khác. Thông qua quan hệ so sánh này giá trị của các hàng hóa được biểu hiện thành giá cả hàng hóa. Thực hiện chức năng thước do giá trị, tiền tệ là thước đo hao phí lao động xã hội kết tinh trong các hàng hóa. Muốn thực hiện được chức năng này, tiền tệ có những đặc điểm sau đây:  Thứ nhất, tiền tệ phải có đầy đủ giá trị nội tại Bản thân hàng hóa đã có giá trị nội tại, bởi vậy để đo được những lượng giá trị này thì “thước đo” tiền tệ cũng phải có một lượng giá trị nào đó. Nếu “thước đo” không có giá trị nội tại thì không thể là cơ sở để so sánh với giá trị hàng hóa được. Hay nói một cách khác, vì mọi hàng hóa đều có giá trị, nên để do lường được tất cả các hàng hóa có giá trị thì tiền tệ cũng phải có giá trị mới có sự đồng nhất về chất để đo lường.  Thứ hai, tiền phải có tiêu chuẩn giá cả Tiêu chuẩn giá cả là trọng lượng vàng nhất định chứa đựng trong một đơn vị tiền tệ do luật pháp Nhà nước quy định. Ví dụ: Đơn vị tiền tệ của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (Mỹ) là đô la (dollar), ký hiệu quốc tế là USD. Từ năm 1973 đến nay tiêu chuẩn giá cả của USD là 0,73662 gr vàng ròng. Tiền tệ phải được quy định tiêu chuẩn giá cả mới thực hiện được chức năng thước đo giá trị. Bởi vì thế giới hàng hóa rất đa dạng, có nhiều hàng hóa với những lượng giá trị khác nhau, có hàng hóa có giá trị cao, nhưng có hàng hóa lại có giá trị thấp. Để có thể đo được tất cả những lượng giá trị phong phú này, phải xác định tiêu chuẩn giá cả của tiền tệ. Trên cơ sở tiêu chuẩn giá cả Nhà nước sẽ phát hành tiền tệ theo bội số và ước số của đơn vị tiền tệ.  Thứ ba khi thực hiện chức năng thước đo giá trị không nhất thiết phải sử dụng tiền mặt, mà chỉ sử dụng tiền trong ý niệm. Nghĩa là những người tham gia trao đổi hàng hóa so sánh một cách tưởng tượng hao phí lao động sản xuất ra hàng hóa với giá trị của tiền tệ đơn vị, xem hao phí lao động này là ước số hay bội số của tiền tệ đơn vị, trên cơ sở này xác lập một tỷ lệ trao đổi thích hợp giữa hàng hóa và tiến tệ. Việc so sánh tưởng tượng như trên gần như khả năng bẩm sinh của những người sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã làm cho mọi hàng hóa đều có một tiếng nói chung – đó là giá cả. Giá cả của hàng hóa là giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng tiền. Thực chất giá cả của hàng hóa là tỷ lệ so sánh giữa

giá trị của nó với giá trị của tiền tệ hay nói một cách khác giá cả của hàng hóa là một đại lượng tỷ lệ thuận với giá trị của hàng hóa và tỷ lệ nghịch với giá trị của tiền tệ. b.Chức năng phương tiện lưu thông

Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện lưu thông khi tiền tệ được sử dụng làm môi giới trung gian phục vụ cho lưu thông hàng hóa. Tiền tệ vận động đồng thời và ngược chiều so với sự vận động của hàng hóa. Hay nói một cách khác tiền tệ được sử dụng làm phương tiện để phục vụ cho sự chuyển hóa của công thức: H-T-H (Hàng hóa – Tiền tệ – Hàng hóa) Sự tham gia của tiền tệ vào quá trình lưu thông hàng hóa đã phân biệt và tiến bộ hơn hẳn so với trao đổi hàng hóa trực tiếp (H – H). Sự phân biệt và tiến bộ này thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, lưu thông hàng hóa được tách thành hai giai đoạn riêng biệt đó là quá trình bán và quá trình mua. Giai đoạn H – T là giai đoạn bán hàng, là giai đoạn chuyển hóa giá trị của hàng hóa thành tiền tệ. Đây là giai đoạn khó khăn nhất của những người sản xuất hàng hóa trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Giai đoạn T – H, là giai đoạn chuyển hóa giá trị thành giá trị sử dụng của hàng hóa. Người sở hữu tiền tệ có thể thực hiện giai đoạn này một cách dễ dàng. Hai giai đoạn này có thể được thực hiện độc lập với nhau. Thứ hai, lưu thông hàng hóa tách rời động tác mua và bán cả về không gian và thời gian. Nghĩa là người sản xuất hàng hóa có thể bán ở chỗ này và mua ở chỗ khác, bán lúc này và mua lúc khác, vì vậy đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, thúc đẩy chu chuyển tiền tệ phục vụ cho lưu thông hàng hóa tốt nhất, nhưng có thể dẫn đến hiện tượng mất cân đối giữa cung và cấu hàng hóa về không gian và thời gian. Thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ có những đặc điểm sau đây:  Thứ nhất: Phải sử dụng tiền mặt Tiền mặt là tiền được làm bằng nguyên liệu cụ thể như: kim loại hoặc giấy, có hình dáng, kích thước, hoa văn, và tiêu chuẩn giá cả nhất định được luật pháp Nhà nước thừa nhận và có giá trị lưu thông. Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông bắt buộc phải sử dụng tiền mặt, bởi vì trong quá trình trao đổi này có sự chuyển nhượng quyền sở hữu giữa

người sở hữu hàng hóa và người sở hữu tiền tệ. Bằng chứng duy nhất chứng minh lao động của người sản xuất hàng hóa bỏ ra là cần thiết cho xã hội, khi mà hàng hóa của họ được bán hết và “giấy chứng nhận” đó chính là tiền mặt. Mặt khác, đây là chức năng vận động của tiền tệ, nên phải có sự vận động của tiền tệ mới có sự vận động của hàng hóa.  Thứ hai: Có thể sử dụng dấu hiệu giá trị Mục đích của người bán hàng không phải là để sở hữu tiền tệ vĩnh viễn mà là để mua hàng hóa khác, là để đạt đến một giá trị sử dụng mới. Do đó tiền tệ đối với họ chỉ là môi giới thoáng qua. Chính vì vậy mà khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông không nhất thiết phải sử dụng tiền đủ giá – tiền đúc bằng vàng, mà có thể sử dụng dấu hiệu giá trị như tiền giấy, tiền kim loại kém giá đều được.  Thứ ba: Lưu thông chỉ chấp nhận một khối lượng tiền tệ nhất định. Khối lượng tiền tệ nhất định được lưu thông chấp nhận là khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông trong một thời gian (Ke), khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông phụ thuộc vào hai yếu tố: – Tổng giá cả hàng hóa đưa ra lưu thông (H): Giả sử rằng trong nền kinh tế không có hiện tượng mua bán chịu, không có lưu thông ngoại tệ, chỉ có lưu thông nội tệ khi tổng giá cả hàng hóa lưu thông tăng lên, số tiền cần thiết cho lưu thông cũng tăng lên, hay nói khác đi số lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng giá cả hàng hóa trong lưu thông. – Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ (hay còn gọi là vòng quay bình quân của tiền tệ – V): Khác với hàng hóa, sau quá trình lưu thông hàng hóa đi vào tiêu dùng và mất đi còn tiền tệ lại luôn luôn vận động trong lưu thông. Một đơn vị tiền tệ có thể thực hiện được nhiều lần giá trị của hàng hóa. Số lần thực hiện trao đổi giữa tiền tệ và hàng hóa trong một đơn vị thời gian được gọi là tốc độ lưu thông tiền tệ. Tốc độ lưu thông tiền tệ là một đại lượng chỉ rõ trong một thời gian nhất định, một đơn vị tiền tệ thực hiện được bao nhiêu lần chức năng phương tiện lưu thông. Số lượng tiền tệ cần thiết thực hiện chức năng phương tiện lưu thông sẽ đồng thời chịu tác động của cả hai yếu tố trên. Mối quan hệ hữu cơ giữa hai yếu tố này là nội dung của quy luật khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông trong một thời gian, được gọi là quy luật lưu thông tiền tệ. Nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ được phát biểu: “Khối lượng tiền cần thiết thực hiện chức năng phương tiện lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá cả

hàng hóa trong lưu thông và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ trong thời kỳ đó.” Quy luật này được viết dưới dạng công thức như sau: K= H / V Trong đó:  K: Khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông trong một thời gian (Ke).  H: Tổng giá cả hàng hóa lưu thông trong một thời gian.  H=h * g  h: Khối lượng hàng hóa lưu thông.  g: Đơn giá hàng hóa bình quân.  V: Vòng quay (tốc độ lưu thông) bình quân của tiền tệ trong một thời gian. Yêu cầu quy luật lưu thông tiền tệ: Kt = Kc Trong đó:  Kt: Khối lượng tiền thực tế lưu thông trong một thời gian.  Kc: Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian. Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật kinh tế phổ biến và rất quan trọng của nền kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để xác định được khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông trong một thời gian một cách chính xác. Trên cơ sở đó để cung ứng tiền cho lưu thông phù hợp. Ý nghĩa thực tế của quy luật lưu thông tiền tệ ở chỗ đã chỉ ra sự cần thiết phải kiểm soát khối lượng tiền tệ lưu thông và phương hướng tác động vào khối lượng tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế của ngân hàng trung ương các quốc gia. Mặc dù quy luật lưu thông tiền tệ không thể hiện được đầy đủ mối quan hệ định lượng giữa các yếu tố có ảnh hưởng đến khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian, nên khả năng áp dụng Quy luật lưu thông tiền tệ vào hoạt động thực tiễn ngân hàng không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả như mong muốn. Tuy nhiên việc vận dụng quy luật Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian để điều hành chính sách vĩ mô có ý nghĩa thực tiễn nhất định.

c. Chức năng phương tiện cất trữ

Sau khi bán hàng, nếu người sở hữu tiền tệ không thực hiện việc mua hàng hóa tiếp theo, lúc này tiền tệ tạm thời ngừng lưu thông để thực hiện chức năng phương tiện cất trữ. Trong cơ chế thị trường ngày nay chức năng này còn được gọi là chức năng dự trữ giá trị của tiền. Thực hiện chức năng phương tiện cất trữ phải bằng tiền mặt và là tiến có giá hoàn toàn (vàng). Bởi vì cất trữ tiền tệ là cất trữ một lượng của cải vật chất, bản thân tiến tệ đã là hàng hóa, nên cất trữ về số lượng phải mang tính chất hiện thực, hơn nửa lượng tiền cất trữ phải có khối lượng nhỏ để dễ chuyên chở, bảo quản, đồng thời giá trị phải lớn để dễ dàng chuyển hóa ra các loại giá trị sử dụng khác, chỉ có vàng mới đáp ứng được những yêu cầu trên. Tiền cất trữ thì không lưu thông nữa, những nơi cất trữ tiền tệ thực sự là “kho” chứa phương tiện lưu thông và tự nó điều tiết số lượng phương tiện lưu thông, làm cho lưu thông không bị thừa hoặc thiếu tiền. Vàng có khả năng thanh toán không hạn chế, vì vậy cất trữ vàng không những là nhu cầu, mà còn là sự ham muốn của nhiều người, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường ngày nay khi mà một số quốc gia đồng tiền yếu – giá trị của tiền tệ thường xuyên bị mất giá thì ham muốn cất trữ vàng, một vật có giá trị hoàn toàn sẽ ngày càng cao. d. Chức năng phương tiện thanh toán

Tiền tệ là phương tiện thực hiện quan hệ trao đổi hàng hóa dịch vụ. Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán khi tiền tệ vận động độc lập tương đối hoặc tách rời với hàng hóa, đồng thời là vật kết thúc quá trình trao đổi. Lúc này tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện thanh toán. Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền tệ không chỉ được sử dụng để trả các khoản nợ về mua chịu hàng hóa, mà tiền tệ còn được sử dụng để thanh toán những khoản nợ vượt ra bên ngoài phạm vi trao đổi hàng hóa như: nộp thuế, trả lương, trả nợ tiền vay, chi dịch vụ và đóng góp các khoản khác. Khi thực hiện chức năng phương tiện, thanh toán có thể sử dụng tiền mặt, có thể không sử dụng tiền mặt mà sử dụng tiền chuyển khoản. Khi nền kinh tế thị trường phát triển càng cao, hệ thống ngân hàng càng hiện đại, nếu các ngân hàng thương mại hoàn hảo trong dịch vụ thanh toán cho khách hàng thì doanh số thanh toán không dùng tiền mặt càng chiếm tỷ trọng lớn và tỷ trọng doanh số thành toán bằng tiền mặt giảm xuống tương ứng. Điều này rất có

lợi cho xã hội vì đã tiết kiệm được tiền mặt và các chi phí liên quan đến lưu thông tiền mặt như chi phí in tiền, đúc tiến, vận chuyển tiến, bảo quản tiền, đóng gói tiền, kiểm đếm tiến, giao nhận tiền, thu hồi tiến, thay thế và tiêu hủy tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông, ... Chức năng phương tiện thanh toán xuất hiện đã phát sinh quan hệ tín dụng giữa những người mua – bán chịu hàng hóa. Do đó đã làm cho khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông tại một thời điểm nhất định cũng thay đổi bởi quan hệ mua – bán chịu trên. Chính vì vậy mà khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông trong một thời gian có sự thay đổi và được diễn đạt như sau: K = (H-C+D-B) / V Trong đó:  K. Là khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời ...


Similar Free PDFs