Tiểu luận triết các phương pháp biện chứng PDF

Title Tiểu luận triết các phương pháp biện chứng
Course Phylosophy
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 20
File Size 359.5 KB
File Type PDF
Total Downloads 186
Total Views 829

Summary

BỘ TƯ PHÁPTRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘITIỂU LUẬNMÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNINĐỀ BÀI:Từ nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù:“bản chất và hiện tượng”, hãy vận dụng để nhận thức và giảiquyết một vấn đề của thực tiễn.Thực hiện: Nhóm 5 – lớp 4626Hà Nội, 2022MỤC LỤCLỜI MỞ ĐẦUNỘI DUNG ..............


Description

BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TIỂU LUẬN MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN ĐỀ BÀI: Từ nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù: “bản chất và hiện tượng”, hãy vận dụng để nhận thức và giải quyết một vấn đề của thực tiễn.

Thực hiện: Nhóm 5 – lớp 4626 Hà Nội, 2022

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU NỘI DUNG ........................................................................................................ 2 I - Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng ............................................................ 2 1. Khái niệm bản chất và hiện tượng .................................................................. 2 2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng ................................... 2 2.1. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng ................................................. 3 2.2. Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng ................. 3 3. Ý nghĩa phương pháp luận ............................................................................. 4 II - Quá trình học tập rèn luyện gặp nhiều khó khăn của những sinh viên năm nhất có kết quả học tập chưa tốt ......................................................................... 6 III - Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng để giải quyết vấn đề học tập và rèn luyện của sinh viên năm nhất ............................................................................................................. 8 KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 14

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 15.........................................................................................................................

LỜI MỞ ĐẦU Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong triết học, có nhiều quan điểm khác nhau về quá trình chuyển hóa, vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng, với hai hình thức chủ yếu là phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật. Trong đó, phép biện chứng duy vật do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập đã có các quan điểm tương đối hoàn thiện, được kế thừa cho đến ngày nay và đóng vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Nhắc tới phép biện chứng này, chúng ta không thể không nhắc đến các cặp phạm trù cơ bản, trong đó điển hình là cặp phạm trù bản chất và hiện tượng. Để tìm hiểu sâu hơn và có thể áp dụng thực tế từ cặp phạm trù ấy, nhóm 5 chúng em đã chọn đề bài: “Từ nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù: “bản chất và hiện tượng”, hãy vận dụng để nhận thức và giải quyết một vấn đề của thực tiễn”.

1

NỘI DUNG I - CẶP PHẠM TRÙ BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG. 1. Khái niệm về bản chất và hiện tượng. Bản chất là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong, quy định sự tồn tại, vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng. Ví dụ như bản chất của con người là sự tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Do đó, một con người thực sự phải có các mối quan hệ xã hội. Các mối quan hệ đó rất đa dạng và phong phú chẳng hạn như quan hệ huyết thống, quan hệ bạn bè, quan hệ đồng nghiệp. Còn hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, các mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện của bản chất đối tượng. Ta có thể thấy, các hiện tượng xã hội, như hiện tượng kinh tế, chính trị, tư tưởng, hoặc quan hệ và hoạt động kinh tế của con người hay xã hội, vv... đều là sự thể hiện bên ngoài của bản chất con người hoặc xã hội. Hay trong một nguyên tố hoá học thì Bản chất là mối liên hệ giữa nguyên tử và hạt nhân còn hiện tượng là những tính chất hoá học của nguyên tố đó khi tương tác với các nguyên tố khác. 2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng. Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan dù cho con người có nhận thực được hay không bởi bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Bản thân mỗi sự vật đều luôn tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ đó lại ở bên trong sự vật, tạo nên bản chất của sự vật. Vậy nên, bản chất tồn tại khách quan. Còn hiện tượng lại là phản ánh của bản chất biểu hiện ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy, nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.

2

Bên cạnh đó, quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng còn được thể hiện rõ nét hơn qua sự mâu thuẫn: tồn tại hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập. 2.1. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Nhấn mạnh mối liên hệ không tách rời giữa bản chất và hiện tượng, Lenin viết: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất”. Sự thống nhất đó được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, bản chất bao giờ cũng biểu hiện qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Không có bản chất nào tồn tại một cách thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại cũng không có hiện tượng nào lại không phải là biểu hiện của bản chất nhất định. Thứ hai, bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng, bất kỳ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít. Nói cách khác, bản chất và hiện tượng về căn bản phù hợp với nhau. Ví dụ, bản chất của chủ nghĩa đế quốc là xâm lược, bóc lột nhân dân các nước, gây mất trật tự an ninh về mặt chính trị. Bản chất đó biểu hiện ở chỗ: viện trợ kinh tế, viện trợ có tính chất nhân đạo, hợp tác văn hóa, du lịch. Thứ ba, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra thành những loại hiện tượng khác nhau. Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng sẽ biến mất. Qua đó ta có thể nhận thấy: nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự vận động và phát triển của sự vật với những biểu hiện đa dạng của nó mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều biểu tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy. 2.2. Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Điều tuyệt đối trong hoàn vũ chính là tất cả đều tương đối, nên sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng chỉ có mối quan hệ biện chứng, tức là sự tương đối hay nói khác hơn trong cái thống nhất ấy đã bao gồm sự khác biệt. 3

Nói cách khác, tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau về căn bản phù hợp với nhau, nhưng chúng không bao giờ phù hợp với nhau hoàn toàn. Bởi vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua tương tác của sự vật ấy với các sự vật xung quanh; các sự vật xung quanh này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến hiện tượng, khiến hiện tượng có những thay đổi nhất định. Kết quả là hiện tượng tuy biểu hiện bản chất nhưng không còn là sự biểu hiện y nguyên bản chất nữa. Sự không hoàn toàn trùng khớp đó khiến cho sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn. Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, bản chất phản ánh cái tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những vào bản chất, mà còn vào hoàn cảnh cụ thể, trong đó bản chất được biểu hiện cho nên bao giờ cũng thể hiện sâu sắc hơn hiện tượng. Ngược lại hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt cho nên luôn phong phú và đa dạng hơn bản chất. Thứ hai, bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan. Còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy. Các hiện tượng là sự biểu hiện của bản chất, về cơ bản phù hợp với bản chất nhưng không bao giờ phù hợp hoàn toàn, chúng biểu hiện bản chất không phải dưới dạng y nguyên như bản chất vốn có mà dưới hình thức đã được cải biến, nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất. Vì vậy, khi xem xét sự vật, ta không thể dừng lại ở biểu hiện bề ngoài mà phải đi sâu vào tìm hiểu bản chất của nó. Thứ ba, bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Còn hiện tượng không ổn định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất. Đó là do nội dung của hiện tượng không chỉ được quyết định bởi bản chất của sự vật, mà còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động quay lại của nó với các sự vật. Các điều kiện tồn tại bên ngoài cũng như sự tác động quay lại của sự vật này với các sự vật khác xung quanh lại thường xuyên biến đổi. Vì vậy, hiện tượng cũng thường xuyên biến đổi, trong khi đó bản chất 4

vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bản chất luôn giữ nguyên như cũ từ lúc ra đời cho đến lúc mất đi. Bản chất cũng biến đổi, nhưng là biến đổi rất chậm so với hiện tượng. 3. Ý nghĩa phương pháp luận. Như V.I.Lênin đã viết: "Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nói như vậy, đến bản chất cấp hai, vv... cứ như thế mãi", nên qua tìm hiểu cặp phạm trù bản chất và hiện tượng ta rút ra được các kết luận sau: Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ và đúng đắn về sự vật, phải đi sâu tìm hiểu bản chất, không chỉ dừng ở hiện tượng, bởi bản chất là cái ở bên trong hiện tượng. Còn trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa vào hiện tượng. Bên cạnh đó, khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện. Vì bản chất tồn tại một cách khách quan ngay ở trong bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm ra bản chất sự vật ở bên trong chính sự vật ấy chứ không thể ở bên ngoài nó. Ngoài ra, bản chất không tồn tại thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ ra ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng. Cần lưu ý, trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét nhiều hiện tượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau. Và đặc biệt, để cải tạo sự vật phải thay đổi bản chất của nó chứ không chỉ thay đổi hiện tượng. Bởi thay đổi được bản chất thì hiện tượng sẽ thay đổi theo. Có thể thấy, đây là một quá trình vô cùng phức tạp, do đó cần kiên nhẫn, không chủ quan, nóng vội và hết sức thận trọng khi kết luận về bản chất của sự vật. Như vậy, ta thấy cặp phạm trù bản chất và hiện tượng là một cặp phạm trù quan trọng, thể hiện tính khoa học và đúng đắn. Xuất phát từ các đặc điểm của chúng, mỗi chúng ta cần nhìn nhận các vấn đề một cách khách quan, khoa học thông qua tìm hiểu đầy đủ, toàn diện các hiện tượng bên ngoài. Từ đó đưa ra các kết luận, nhận thức đúng đắn về bản chất bên trong của sự vật, hiện tượng.

5

II – ĐẶT VẤN ĐỀ: QUÁ TRÌNH HỌC TẬP RÈN LUYỆN GẶP NHIỀU KHÓ KHĂN CỦA NHỮNG SINH VIÊN NĂM NHẤT CÓ KẾT QUẢ HỌC TẬP CHƯA TỐT. Bước vào cánh cổng Đại học, có những bạn sinh viên có thể làm quen ngay với môi trường và đạt kết quả tốt. Nhưng bên cạnh đó, cũng có không ít bạn sinh viên chưa thể hòa nhập được với môi trường mới hay chưa tiếp cận được với phương pháp giảng dạy và học tập mới nên kết quả học tập trong những kỳ học đầu chưa cao. Khó khăn trong việc thích nghi với môi trường và phương pháp học tập mới ở đại học là vấn đề mà bất cứ tân sinh viên nào cũng gặp phải, bởi lẽ học tập ở đại học và trung học là không giống nhau. Trong mỗi cấp học, đều sẽ có lượng kiến thức, phương thức giảng dạy của thầy cô, phương pháp học của sinh viên và học sinh, tiêu chuẩn đánh giá việc tiếp thu học tập cũng khác nhau. Bởi vậy rất khó để sinh viên năm nhất có thể thích nghi một cách nhanh chóng và dễ dàng với một môi trường học tập hoàn toàn mới. Sinh viên năm nhất phải đối mặt với rất nhiều khó khăn hay thử thách mới như: Kiến thức các môn học quá rộng, không tìm kiếm được những nguồn tham khảo uy tín. Việc cùng lúc phải tiếp nhận nhiều kiến thức mới, khối lượng môn học, bài tập lớn và tân sinh viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc phân bổ thời gian một cách hợp lí cũng làm cho tân sinh viên gặp nhiều trở ngại. Sự thay đổi lớn được diễn ra trong nhiều mặt khiến cho các bạn tân sinh viên cảm thấy áp lực trước việc thích nghi với môi trường mới ở đại học. Thực tế cho thấy, tồn tại một bộ phận lớn các bạn tân sinh viên vẫn chưa có được thái độ học tập đúng đắn, chưa thích nghi được với môi trường mới. Sau khi bước vào ngưỡng cửa đại học, các bạn chưa chuẩn bị tâm lí sẵn sàng cho một hành trình mới, để bản thân nghỉ ngơi quá lâu sau kì thi THPT quốc gia. Từ đó dẫn đến tinh thần học tập, ý chí cầu tiến, chủ động tiếp thu kiến thức mới bị giảm sút, mất đi. Không xác định rõ ràng mục tiêu, động cơ học tập của bản thân từ đó mà phương pháp học tập cũng như những hoạt động khác cũng không đạt được hiệu quả.

6

Bên cạnh đó, các bạn tân sinh viên vẫn còn thiếu tính tự giác và chưa biết cách sắp xếp, quản lý thời gian sao cho hợp lý. Khi còn học phổ thông, các thầy cô giáo rất sát sao, tỉ mỉ với từng học sinh nhưng khi trở thành sinh viên, bạn phải học cách tự chịu trách nhiệm cho mọi hành động của mình, bao gồm cả việc tự học tập và tìm hiểu. Cùng với đó, việc học online cũng phần nào khiến cho việc làm quen với việc học đại học trở nên khó khăn hơn do các bạn không được tiếp xúc trực tiếp với môi trường này. Đó chính là 1 trong những yếu tố khiến sinh viên năm nhất choáng ngợp và chưa thể thích nghi với môi trường đại học một cách nhanh chóng, từ đó dẫn đến việc chưa biết cách quản lý thời gian. Với suy nghĩ “ Nước đến chân mới nhảy” hay mình còn 3 - 4 năm để học đã khiến rất nhiều bạn bỏ lỡ khoảng thời gian thanh xuân quý giá một cách lãng phí thay vì học tập, trải nghiệm, thiết lập các mối quan hệ và hoàn thiện những kỹ năng mềm trong cuộc sống. Các bạn quên đi rằng mục đích chính của việc học là để nâng cao tri thức của bản thân. Giá trị cốt lõi của việc học tập cũng chính là để nâng cao năng lực chuyên môn của bản thân. Để sau này, chúng ta có thể áp dụng những kiến thức chuyên môn đã học vào những công việc thực tế, làm việc một cách hiệu quả, năng suất. Vậy cặp phạm trù "bản chất - hiện tượng" của vấn đề trên là gì, được thể hiện ra sao? Từ việc vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù này ta có thể đưa ra giải pháp như thế nào đối với việc sinh viên năm nhất còn gặp khó khăn trong quá trình học tập và rèn luyện của bản thân?

III - VÂN DỤNG NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA CẶP PHẠM TRÙ BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN NĂM NHẤT 7

Từ việc nghiên cứu nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù “bản chất và hiện tượng”, ta có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận với việc học tập và rèn luyện của những sinh viên năm nhất còn đang gặp khó khăn, chưa thích nghi được với môi trường mới. So với chương trình học ở phổ thông, thời gian giảng dạy và học từng môn ở Đại học giảm xuống một cách đáng kể. Trong mỗi một năm học, hầu hết các môn học phổ thông sẽ kéo dài trong toàn bộ năm học đó, khoảng 35 tuần, vì thế khối lượng kiến thức được chia dàn trải hơn khiến học sinh dễ dàng tiếp nhận hơn. Ở Đại học một môn học chỉ kéo dài từ 5 đến 15 tuần. Khối lượng kiến thức lớn được giảng dạy trong khoảng thời gian ngắn khiến sinh viên gặp không ít những khó khăn trong năm đầu tiên, khi chưa thể thích nghi hoàn toàn với môi trường đại học, chưa thể theo kịp bài giảng trên trường cũng như phương thức học tập vô cùng khác so với trước đây. Bởi vậy nhiều sinh viên năm nhất dần trở nên sao nhãng trong việc học, điểm số bị ảnh hưởng trực tiếp dẫn đến thái độ tiêu cực được thể hiện rõ ràng qua các hiện tượng sau: Không tích cực tham gia đóng góp ý kiến trong các giờ học; ngại hỏi, ngại trao đổi với giảng viên cũng như các sinh viên khác; không hoàn thành tốt các bài tập được giao;… Để rồi dần dần mất đi niềm yêu thích, sự hứng thú với việc học; băn khoăn về sự lựa chọn của bản thân khi bước vào cánh cửa đại học mà có thể đưa ra những quyết định sai lầm như bỏ học giữa chừng,... Sự vận động và phát triển của từng sự vật, hiện tượng được quy định bởi bản chất của sự vật, hiện tượng đó. Bản chất của việc sinh viên năm nhất gặp phải những khó khăn, trở ngại trong quá trình học tập và rèn luyện của mình nằm ở việc chưa tiếp thu được kiến thức một cách đúng và đủ cũng như phương pháp học tập chưa hiệu quả hay ý thức, thái độ học tập còn kém. Những kiến thức ấy được tiếp nhận không chỉ qua sách vở, qua thầy cô mà còn qua những hoạt động ngoại khóa, qua việc tham gia các câu lạc bộ trong và ngoài trường để giao lưu học hỏi; tự mình tìm hiểu, chủ động tích luỹ những tri thức mới;... Những kiến thức và kinh nghiệm ấy được tiếp thu ra sao, ở mức độ như thế nào sẽ được thể hiện qua kết quả học tập (hiện tượng) sau mỗi kỳ thi, cụ thể qua điểm số, số hạng, thành tích: Kết quả tốt đồng nghĩa với việc sinh viên tiếp thu kiến thức tốt, giao tiếp tốt, tự tin khi phát 8

biểu ý kiến và ngược lại, kết quả chưa tốt nghĩa là phần nhiều lượng kiến thức ấy chưa được tiếp thu và sinh viên vẫn còn thụ động trong việc học tập của bản thân. Nếu sinh viên dành quá ít thời gian cho việc học, kết quả sẽ bị ảnh hưởng xấu, và nếu sinh viên dành toàn bộ thời gian của mình cho học tập (nghĩa là học tập thiếu khoa học), không những gây tác động xấu tới sức khỏe mà còn mất đi cơ hội giao lưu, học hỏi những kiến thức không thể tìm thấy trên sách vở, dần khép mình với môi trường bên ngoài từ đó đem lại những kết quả không như mong muốn. Qua đây ta thấy được, bản chất bao giờ cũng biểu hiện qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là biểu hiện của bản chất. Giữa bản chất và hiện tượng luôn tồn tại sự thống nhất cũng như tính mâu thuẫn của sự thống nhất. Giữa bản chất và hiện tượng của quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên năm nhất cũng tương tự như vậy. Sự thống nhất trong quá trình học tập và rèn luyện được thể hiện qua việc sinh viên phải có kiến thức đúng mới có thể đạt kết quả tốt, phải có kinh nghiệm đủ mới có thể vận dụng hiệu quả. Không yếu tố nào có thể tồn tại một cách thuần tuý khi thiếu bản chất, chỉ có hiện tượng và ngược lại, chỉ có bản chất mà không có hiện tượng. Muốn đạt điểm giỏi, thứ hạng cao thì phải trang bị, tích luỹ được vốn kiến thức nhất định, dành được lượng thời gian cân đối với phương pháp học hợp lý, khoa học chứ không thể ngẫu nhiên đạt được thành tích tốt mà không nhờ tới một quá trình dài trau dồi, học hỏi. Qua đây, ta có thể thấy sự thống nhất giữa việc sinh viên có kết quả không tốt với việc sinh viên chưa tiếp thu đúng, đủ kiến thức của từng môn học trong quá trình học tập và rèn luyện của một số sinh viên năm nhất. Bởi không hiểu hết được bản chất của kiến thức, không nắm rõ được nội dung của bài học nên không thể theo kịp bài giảng trên trường, không thể áp dụng vào các bài tập thực hành từ đó dẫn đến kết quả học tập kém. Không chỉ kết quả học tập ảnh hưởng mà niềm yêu thích, hứng thú với học tập hay thái độ, ý thức học tập cũng chịu ảnh hưởng lớn. Từ đó, ta càng có thể khẳng định bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng ở mức độ dù ít hay nhiều. Đã không nắm chắc nội dung bài học lại không có phương pháp học tập phù hợp, thái độ học tập kém nên kết quả học tập ngày một tụt dốc (hiện 9

tượng). Hơn thế nữa, bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng, bất kỳ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít. Tuy nhiên, bên cạnh sự thống nhất còn tồn tại tính mâu thuẫn của sự thống nhất mà như Các Mác từng nói “Nếu hiện tượng và bản chất của sự vật là nhất trí với nhau thì tất thảy khoa học sẽ trở nên thừa” bởi cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau. Sinh viên có vốn kiến thức đúng, đủ nhưng lại có những trường hợp hi hữu không đạt được kết quả cao, thành tích tốt như mong muốn. Ngược lại, có những sinh viên không có vốn kiến thức đúng, đủ nhưng vẫn có khả năng, dù là rất nhỏ, đạt điểm tốt nhờ những hành vi gian lận trong thi cử, hay là may mắn nhờ học tủ,...


Similar Free PDFs