Bài tập thảo luận lần 1 - Môn Luật dân sự PDF

Title Bài tập thảo luận lần 1 - Môn Luật dân sự
Author Eirlys Rexia
Course Luât Dân sự 1
Institution Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 16
File Size 387.7 KB
File Type PDF
Total Downloads 201
Total Views 540

Summary

Download Bài tập thảo luận lần 1 - Môn Luật dân sự PDF


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA DÂN SỰ ͼ-----֍-----ͽ

BÀI TẬP THẢO LUẬN Đề tài: CHỦ THỂ CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Môn học: Luật dân sự 1 Nhóm thảo luận: Nhóm 4 Lớp: DS46B2 Giảng viên hướng dẫn: Thầy Nguyễn Nhật Thanh

Danh sách thành viên Họ và tên

MSSV

Nguyễn Huỳnh Mai Thảo

2153801012214

Nguyễn Thị Phương Thảo

2153801012216

Nguyễn Thị Phương Thảo

2153801012217

Nguyễn Văn Thanh Thảo

2153801012218

Trác Lưu Ngọc Thảo

2153801012219

Phạm Minh Thư

2153801012232

Đỗ Thùy Trang

2153801012238

Nguyễn Bảo Trâm

2153801012245

Nguyễn Thị Bảo Trân

2153801012247

Nguyễn Thị Ngọc Trân

2153801012248

Nhóm trưởng

Tất cả các thành viên đều hoàn thành tốt và đầy đủ nhiệm vụ được giao.

Phần 1: Năng lực hành vi dân sự cá nhân Câu 1: Những điểm giống nhau và khác nhau giữa hạn chế năng lực hành vi dân sự và mất năng lực hành vi dân sự. Theo Điều 24 Bộ Luật Dân sự 2015 hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định như sau: “1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện. 2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác. 3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự. ” Theo Điều 22 Bộ Luật Dân sự 2015 mất năng lực hành vi dân sự được quy định như sau: “1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. 2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện” Giống nhau: - Đều không thể tự mình tham gia tất cả các giao dịch dân sự.

- Là những người từng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. - Việc họ bị hạn chế hay bị mất năng lực hành vi dân sự dựa trên quyết định của Tòa án trên cơ sở yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan. - Khi không còn căn cứ cho rằng họ bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì họ có quyền được khôi phục lại năng lực hành vi dân sự của mình. - Tòa án ra quyết định tuyên bố yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan. Khác nhau: Về khái niệm: Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình. Người mất năng lực hành vi dân sự là người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi (dựa trên cơ sở pháp y tâm thần). Về hệ quả pháp lí: Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ không bị mất hết năng lực hành vi dân sự mà họ vẫn có thể tự mình tham gia được một số giao dịch dân sự nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của họ hoặc luật liên quan có quy định khác. Người mất năng lực hành vi dân sự sẽ không còn năng lực hành vi dân sự, không thể tham gia bất kì một giao dịch dân sự nào, các giao dịch dân sự của họ sẽ do người đại diện của họ xác lập và thực hiện. Câu 2: Những điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Căn cứ theo quy định tại bộ Luật Dân sự 2015, những điểm khác nhau cơ bản là: Về khái niệm: Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự. Người đại diện: Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: Người đại diện theo pháp luật.

Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: Người giám hộ do Tòa án chỉ định. Thời điểm xác định thuộc đối tượng: Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: Khi Tòa án ra quyết định. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: Khi Tòa án ra quyết định tuyên bố. Câu 3: Trong quyết định trên, Toà án nhân dân tối cao đã xác định năng lực hành vi dân sự của ông Chảng như thế nào? Trong quyết định trên, Tòa án nhân dân tối cao đã xác định năng lực hành vi dân sự của ông Chảng dựa vào “Biên bản giám định khả năng lao động” số 84/GĐYK-KNLĐ ngày 18/12/2007 của Hội đồng giám định y khoa Trung ương (“Không tự đi lại được. Tiếp xúc khó, thất vận ngôn nặng, liệt hoàn toàn ½ người phải. Rối loạn cơ tròn kiểu trung ương, tai biến mạch máu não lần 2. Tâm thần: Sa sút trí tuệ. Hiện tại không đủ năng lực hành vi lập di chúc. Được xác định tỉ lệ mất khả năng lao động do bệnh tật là 91%...”). Câu 4: Hướng của Toà án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì sao? Hướng của Toà án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên hoàn toàn thuyết phục. Bởi vì khi đưa ra nhận định, toà án có cơ sở pháp lý rõ ràng, hợp pháp để đưa ra hướng giải quyết phù hợp. Căn cứ vào Điều 22 Bộ luật dân sự 2015 quy định về một người khi bị mất năng lực hành vi dân sự “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần”. Theo như “Biên bản giám định khả năng lao động” số 84/GĐYK-KNLĐ ngày 18/12/2007, Hội đồng giám định y khoa Trung ương – Bộ Y tế xác định ông Chảng, toà án đã căn cứ vào đó để nhận định rằng ông Chảng là người mất năng lực hành vi dân sự. Ở đây, toà án đã đưa ra được căn cứ chính xác theo quy định của pháp luật để xác định ông Chảng mất năng lực hành vi dân sự cho nên hướng giải quyết của toà án ở đây là hoàn toàn đúng, thuyết phục. Câu 5: Theo Toà án nhân dân tối cao, ai không thể là người giám hộ và ai mới có thể là người giám hộ của ông Chảng? Hướng của Toà án nhân dân tối cao như vậy có thuyết phục không, vì sao? Theo Toà án nhân dân tối cao, bà Bích không thể là người giám hộ hợp pháp của ông Chảng và bà Chung – vợ hợp pháp của ông Chảng mới có thể làm người giám hộ của

ông. Hướng của Toà án nhân dân tối cao như vậy là hoàn toàn hợp lý: Theo như tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bà Chung chung sống với ông Chảng từ năm 1975, có tổ chức đám cưới và có con chung, có căn cứ xác định bà Chung và ông Chảng chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987, cho nên Bà Chung được công nhận là vợ hợp pháp của ông Chảng theo quy định tại điểm a mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình. Chính vì bà là người vợ hợp pháp trên giấy tờ của ông Chảng cho nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 53 của Bộ luật dân sự 2015: : “Nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ”, Bà Chung có đủ điều kiện để trở thành người giám hộ hợp pháp của ông Chảng. Còn về bà Bích, Theo như “giấy chứng nhận kết hôn – đăng ký lại” ngày 15/10/2001 do bà Bích đề xuất là không đúng theo quy định tại khoản 1, Điều 22, Điều 58, Điều 62 Bộ luật dân sự năm 2005 và sau khi xét xử phúc thẩm, UBND phường Yên Nghĩa, thành phố Hà Nội đã có công văn số 31/UBND-TP ngày 8/3/2019 xác nhận không có trường hợp đăng ký kết hôn nào có tên ông Lê Văn Chảng và bà Nguyễn Thị Bích cho nên bà Bích không được coi là vợ hợp pháp theo quy định và bà không đủ điều kiện được cử làm người giám hộ cho ông Chảng. Toà án đã đưa ra quyết định đúng đắn, hợp lí theo quy định của pháp luật, có cơ sở pháp lý, căn cứ rõ ràng cho nên hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao ở đây là hoàn toàn thuyết phục và không thể bàn cãi. Câu 6: Cho biết các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản của người được giám hộ (nêu rõ cơ sở pháp lý). Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản của người được giám hộ. Quyền: Quy định tại Điều 58 Bộ luật dân sự 2015. Người giám hộ của người chưa thanh niên, người mất năng lực hành vi dân sự có các quyền sau đây: - Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ. - Được thanh toán các chi phí hợp lí cho việc quản lí tài sản của người được giám hộ. - Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ. Nghĩa vụ: Quy định tại Điều 59 của Bộ luật Dân sự 2015. Quản lý tài sản của người được giám hộ. - Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có

trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ. - Việc bán, trao đổi, cho mượn, cho vay, cho thuê, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ. - Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Các giao dịch dân sự của người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ. Câu 7: Theo quy định và Toà án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người giám hộ của ông Chảng có được tham gia vào việc chia di sản thừa kế (mà ông Chảng được hưởng) không? Vì sao? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Toà án nhân dân tối cao về vấn đề vừa nêu. Theo quy định của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người giám hộ của ông Chảng (bà Bích) được tham gia vào việc chia di sản thừa kế (mà ông Chảng được hưởng) với tư cách là người đại diện của ông Chảng tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Cụ thể tại bản án dân sự phúc thẩm số 07/2009/DSPT, Tòa án nhân dân tối cao Hà Nội quyết định sửa nội dung ở mục số 5 của bán án sơ thẩm như sau: “Ông Lê Văn Chỉnh phải thanh toán trả ông Lê Văn Chảng 1.794.311.339 đồng. Giao cho bà Bích quản lý”. Điều này cho thấy người đại diện của ông Chảng là bà Bích được tham gia vào việc chia di sản thừa kế mà ông Chảng được hưởng. Vì tại thời điểm diễn ra phiên tòa sơ thẩm năm 2008 và phúc thẩm năm 2009 thì bà Bích được công nhận là người đại diện hợp pháp của ông Chảng vì có giấy đăng ký kết hôn ngày 15/10/2001. Hướng giải quyết của tòa án về vấn đề nêu trên còn qua loa, thiếu minh bạch vì không điều tra rõ lại bằng chứng. Cụ thể tại “Biên bản giám định khả năng lao động” số 84/GĐYK-KNLĐ ngày 18/12/2007, Hội đồng giám định y khoa Trung ương - Bộ y tế xác định ông Chảng: “Không tự đi lại được, tiếp xúc khó, thất vận ngôn nặng, liệt hoàn toàn ½ người phải. Rối loạn cơ tròn kiểu trung ương, tai biến mạch máu não lần 2. Tâm thần: Sa sút trí tuệ. Hiện không đủ năng lực hành vi lập di chúc. Được xác định tỷ lệ mất khả năng lao động do bệnh tật là 91%...”. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào “Biên bản khả năng lao động” nêu trên và “Giấy chứng nhận kết hôn – Đăng ký lại” ngày 15/10/2001, do bà Bích xuất trình để xác định bà Bích là vợ ông Chảng đồng thời là người giám hộ hợp pháp của ông Chảng theo quy định tại Khoản 1, Điều 22, Điều 58, Điều 62 Bộ luật dân sự năm 2005. Tuy nhiên, sau khi xét xử phúc thẩm, UBND

phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, TP Hà Nội có Công văn số 31/UBND-TP ngày 8/3/2019 xác nhận: "Qua kiểm tra xác minh sổ đăng kí kết hôn năm 2001 của phường cho thấy không có trường hợp đăng kí kết hôn nào có tên ông Lê Văn Chảng và bà Nguyễn Thị Bích". Mặt khác, tại Công văn số 62 ngày 21/1/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông, TP Hà Nội xác định hành vi không xác minh tình trạng hôn nhân, không lập hồ sơ theo quy định về đăng kí hộ tịch, nhưng vẫn kí xác nhận giấy đăng kí kết hôn và trình lãnh đạo UBND phường Yên Nghĩa, của ông Bùi Viết Tánh (cán bộ tư pháp UBND phường Yên Nghĩa) có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Căn cứ các tài liệu này, thể hiện “Giấy đăng kí kết hôn- Đăng kí lại” này 15/10/2001 giữa bà Bích và ông Chảng, do bà Bích xuất trình là không đúng thực tế và không có việc đăng kí kết hôn giữa bà Bích và ông Chảng. Như vậy, tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án bà Bích không phải là vợ hợp pháp của ông Chảng. Do đó, bà Bích không đủ điều kiện được cử làm người giám hộ cho ông Chảng, theo quy định tại Khoản 1, Điều 62 Bộ luật Dân sự năm 2005. Đây là tình tiết mới, quan trọng của vụ án có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của Bản án mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án, theo quy định tại Điều 351, Khoản 1 Điều 352 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ngoài ra, tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bà Chung chung sống với ông Chảng từ năm 1975, có tổ chức đám cưới và có con chung. Do đó, có căn cứ xác định bà Chung và ông Chảng chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 3/1/1987. Trường hợp này, bà Chung và ông Chảng được công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại điểm a, Mục 3, Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại xác định bà Bích là vợ hợp pháp của ông Chảng.

Phần 2: Tư cách pháp nhân và hệ quả pháp lý Câu 1: Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp nhân (nêu rõ từng điều kiện). Căn cứ vào Khoản 1, Điều 74, Bộ luật dân sự 2015, những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp nhân là: “1. Được thành lập theo quy định của Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan. 2. Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 Bộ luật dân sự 2015: Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.

Pháp nhân có cơ quan khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật. 3. Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. 4. Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.” Câu 2: Trong Bản án số 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường có tư cách pháp nhân không? Đoạn nào của Bản án có câu trả lời. Theo Bản án số 1117, theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường có tư cách pháp nhân nhưng là tư cách pháp nhân không đầy đủ. Đoạn trong bản án chỉ ra câu trả lời: “Như vậy, Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đại diện hạch toán báo sổ khi thực hiện dự toán, quyết toán phải theo phân cấp Bộ, phụ thuộc theo sự phân bổ ngân sách của Nhà nước và phân cấp của Bộ Tài nguyên và Môi trường chứ không phải là một cơ quan hạch toán độc lập. Mặc dù trong quyết định số 1367 nói trên có nội dung “ Cơ quan đại diện có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài sản riêng” nhưng là Cơ quan đại diện Bộ phải hạch toán báo sổ nên cơ quan nầy có tư cách pháp nhân nhưng là tư cách pháp nhân không đầy đủ. Như quy định tại Điều 92 Bộ luật Dân sự năm 2005: “...2. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của pháp nhân và được thực hiện nhiệm vụ bảo vệ lợi ích đó 4. Văn phòng đại diện chi nhánh không phải là pháp nhân. Người đứng đầi Văn phòng đại diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền 5. Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do Văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện.” Câu 3: Trong Bản án số 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường không có tư cách pháp nhân? Căn cứ Điều 92 Bộ luật Dân sự 2005: “...2. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của pháp nhân và thực hiện việc bảo vệ các lợi ích đó. 3. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền.

4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp nhân. Người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền.” Tòa án xác định cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường không có phải pháp nhân vì: Xét theo quyết định số 1364/QĐ-BTNMT ngày 08/07/2008 của Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan đại diện Bộ tài nguyên và môi trường TP.HCM thì cơ quan đại diện là tổ chức của Bộ tài nguyên mà môi trường, giúp Bộ trưởng theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện nhiệm vụ về lĩnh vực thuộc phạm vi của Bộ trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở phía Nam, thực hiện một số nhiệm vụ theo chương trình công tác của Bộ trên địa bàn được giao phụ trách... Phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ thực hiện công tác chuyên môn nghiệp vụ được giao. Cơ quan đại diện của Bộ Tài nguyên và môi trường chưa đáp ứng đủ điều kiện có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án. Em đồng tình với hướng giải quyết của Tòa án khi chấp nhận yêu cầu bồi thường của ông Nguyễn Ngọc Hùng, lý do là vì cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường TP.HCM đã không rõ ràng trong việc kí kết hợp đồng lao động với ông. Về vấn đề bảo hiểm xã hội và bảo hiểm tai nạn thì cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường TP.HCM phải tiếp tục thực hiện để đảm bảo lợi ích về quyền và nghĩa vụ của người lao động mà trong trường hợp này là ông Hùng. Tòa án cũng đã rất đúng đắn khi phát hiện ra sai sót của Tòa án sơ thẩm là xác định không đúng quy định của luật về pháp nhân của bị đơn, hủy án sơ thẩm và yêu cầu Tòa án Nhân dân Quận 1 giải quyết lại vụ án sơ thẩm. Câu 5: Pháp nhân và cá nhân có gì khác nhau về năng lực pháp luật dân sự? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời (nhất là trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015). Về khái niệm: Tại Điều 14 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự”. Trong khi đó, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được quy định tại điều 86 Bộ luật Dân sự 2015 đã thêm cụm từ “phù hợp với hoạt động mục đích hoạt động của mình”. Tuy nhiên, việc thu hẹp phạm vi năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân dẫn đến nhiều bất cập trong thực tiễn, khó xác định có phù hợp với mục đích của pháp nhân hay không. Vì thế Bộ luật Dân sự 2015 đã loại bỏ cụm từ “phù hợp với hoạt động mục đích

hoạt động của mình” và sửa đổi/bổ sung thành: “Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.” Vì vậy, theo Bộ luật Dân sự 2005, năng luật pháp luật dân sự pháp nhân bị thu hẹp so với cánhân nhưng với Bộ luật Dân sự 2015 thì khái niệm năng lực pháp luật dân sự của cá nhân và pháp nhân là giống nhau. Về năng lực dân sự liên quan đến giới tính, huyết thống: Trong Bộ luật Dân sự 2015 quy định về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan đến giới tính và huyết thống (Vd: Điều 36. Cá nhân có quyền xác định lại giới tính, Điều 37. Chuyển đổi giới tính). Trong khi đó pháp nhân k...


Similar Free PDFs