Bài thi giữa kìBTL NG - tài liệu về các môn học nguye lý mar nhà nuoc va pháp luat dai cương PDF

Title Bài thi giữa kìBTL NG - tài liệu về các môn học nguye lý mar nhà nuoc va pháp luat dai cương
Course Toán cao cấp
Institution Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Pages 20
File Size 314.9 KB
File Type PDF
Total Downloads 296
Total Views 415

Summary

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ( Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế )ĐỀ TÀI:BÀI KIỂM TRA GIỮAKÌ Giảng viên phụ trách: TS Thị MaiPhương Môn: Nhà nước và pháp luật đại cương Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị NgọcTrâm Mã sinh viên: 21051049 Ngày sinh: 01/02/ Lớp: QH– 2021-E KTQT CLC 6...


Description

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ (Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế)

ĐỀ TÀI:

BÀI KIỂM TRA GIỮA KÌ  Giảng viên phụ trách: TS.Phan Thị Mai Phương  Môn: Nhà nước và pháp luật đại cương  Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Trâm  Mã sinh viên: 21051049  Ngày sinh: 01/02/2003  Lớp: QH– 2021-E KTQT CLC 6

Hà Nội – Tháng 1/2022

Bài làm

Câu 1: Anh chị hãy trình bày về chức năng của nhà nước, chỉ rõ sự thay đổi của chức năng nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và liên hệ với nhà nước CHXHCN VN. 1.1 Chức năng của nhà nước:

+ Khái niệm: là hoạt động nhà nước cơ bản nhất, mang tính thường xuyên, liên tục, ổn định tương đối, xuất phát từ bản chất, cơ sở kinh tế-xã hội, nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu cơ bản của nhà nước và có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của nhà nước.

+ Cần phân biệt chức năng của nhà nước với: . hoạt động của nhà nước . nhiệm vụ (chiến lược) của nhà nước . chức năng của cơ quan nhà nước

+ Các mối quan hệ của chức năng nhà nước: +) Với nhiệm vụ (chiến lược) của nhà nước: ∙ Nhiệm vụ là cơ sở để xác định nội dung, hình thức, số lượng, phương pháp thực hiện chức năng của nhà nước. ∙ Chức năng của nhà nước là phương thức để thực hiện nhiệm vụ của nhà nước. +) Với bản chất của nhà nước, cơ sở kinh tế-xã hội: ∙ Bản chất của nhà nước sẽ quyết định chức năng của nhà nước. ∙ Chức năng của nhà nước sẽ thể hiện bản chất của nhà nước đó. ∙ Tác động tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển của kinh tế-xã hội.

+ Tính khách quan và chủ quan của chức năng nhà nước: +) Tính khách quan: ∙ Chức năng của nhà nước được hình thành một cách khách quan dưới tác động chủ đạo của nhiệm vụ nhà nước, sự quyết định của bản chất nhà nước và điều kiện khách quan của cơ sở kinh tế-xã hội.

∙ Nhu cầu khách quan từ phía xã hội đòi hỏi nhà nước phải thực hiện các hoạt động tương ứng. ∙ Sự thay đổi trong điều kiện kinh tế-xã hội sẽ kéo theo sự thay đổi khách quan của chức năng nhà nước. +) Tính chủ quan: ∙ Các nhà quản lý nhà nước qua lăng kính chủ quan của mình để nhận thấy những đòi hỏi cần phải có trong hoạt động nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ(chiến lược) nhà nước, phản ánh trình độ nhận thức về thực tại khách quan của điều kiện kinh tế-xã hội. ∙ Phụ thuộc vào sư quan tâm của nhà nước đối với các nhu cầu đòi hỏi từ phía xã hội.

+ Phân loại chức năng của nhà nước: +) Căn cứ theo lĩnh vực hoạt động: ∙ Nhóm chức năng đối nội ∙ Nhóm chức năng đối ngoại +) Căn cứ vào hình thức (pháp lý) thực hiện quyền lực nhà nước: ∙ Chức năng lập pháp: xây dựng ban hành pháp luật ∙ Chức năng hành pháp: tổ chức thực hiện pháp luật ∙ Chức năng tư pháp: bảo vệ pháp luật +) Căn cứ theo lĩnh vực hoạt động của nhà nước: ∙ Chức năng chính trị ∙ Chức năng kinh tế ∙ Chức năng xã hội +) Ngoài ra, chức năng nhà nước theo từng tiêu chí khác nhau có thể được chia thành: ∙ Chức năng trấn áp và chức năng xây dựng ∙ Chức năng cơ bản và chức năng không cơ bản ∙ Chức năng lâu dài và chức năng trươc mắt (tạm thời)

+ Những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng nhà nước: nhìn chung, nhiệm vụ và bản chất của nhà nước là 2 yếu tố ảnh hưởng đến chức năng của nhà nước. ∙ Lịch sử phát triển của từng dân tộc, truyền thống-văn hoá-hệ tư tưởng. ∙ Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế trong xã hội. ∙ Cơ cấu-phân tầng xã hội, mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích trong xã hội. ∙ Quyền con người, dân chủ và toàn cầu hoá. ∙ Trình độ và trách nhiệm của các nhà chính trị, các nhà quản lý nhà nước.

+ Hình thức, phương pháp thực hiện chức năng nhà nước: +) Hình thức: ∙ Hình thức pháp lý: các phương diện, hoạt động cơ bản của nhà nước được thực hiện trên cơ sở các quy định pháp luật, là hình thức cơ bản để thực hiện chức năng nhà nước. ∙ Hình thức tổ chức: phương thức mang tính tổ chức của các phương diện, hoạt động cơ bản của nhà nước, cùng với hình thức pháp ly giúp chức năng nhà nước được thực hiện nhịp nhàng, hiệu quả. +) Phương pháp thực hiện: ∙ Phương pháp thuyết phục: là cách thức theo đó nhà nước động viên khuyến khích, tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện một cách tự giác. ∙ Phương pháp cưỡng chế: là cách thức mà theo đó các nội dung, yêu cầu của nhag nước được các đối tượng có liên quan thức hiện một cách bắt buộc.

+ Chức năng nhà nước qua các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến và tư sản: . Chức năng đối nội: - Ghi nhận và bảo vệ đặc quyền chính trị của giai cấp thống trị trong xã hội. - Bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của giao cấp thống trị. - Trấn áp giai cấp bị trị. - Tổ chức, quản lý xã hội theo một trật tự nhất định. - Tạo cơ sở thuận lợi cho sự phát triển kinh tế. - Đáp ứng trong điều kiện nhất định các nhu cầu đòi hỏi từ phía xã hội. - Từng bước ghi nhận quyền tự do dân chủ của con người. . Chức năng đối ngoại:

- Tiến hành chiến tranh xâm lược. - Phòng thủ, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn của quốc gia. - Hoạt động ngoại giao theo chính sách đối ngoại của từng giai đoạn, quốc gia. 1.2 Sự thay đổi chức năng của nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và liên hệ với nhà nước CHXHCNVN: -

Sự phổ biến của các mô hình nhà nước

Mô hình nhà nước hiện đại được hình thành vào cuối thế kỷ XVIII-XIX ở các nước phương Tây và dần phổ biến với tư cách tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt. Theo đó, nhà nước được thiết lập từ một cộng đồng người, có bộ máy được cấu trúc chặt chẽ, khoa học để quản lý, cai trị dân cư trên một lãnh thổ xác định. Trong phạm vi lãnh thổ xác định với khối cư dân tương đối ổn định đó, nhà nước giữ độc quyền cưỡng chế. Mô hình nhà nước dựa trên ba thành tố này được phổ biến khắp thế giới và phạm vi can thiệp của nhà nước không ngừng được mở rộng. Đỉnh điểm của xu hướng này là sự lên ngôi của nhà nước phúc lợi, nhưng chính mô hình nhà nước này cũng lâm vào khủng hoảng vào cuối thế kỷ XX dưới sự tác động của các nhân tố kinh tế (gánh nặng nợ công do quá trình mở rộng các dịch vụ công và phúc lợi xã hội) và chính trị (đòi hỏi về hiệu quả trong quản trị quốc gia), dẫn tới sự đánh giá lại vai trò, vị trí của nhà nước. Toàn cầu hóa đặt ra những câu hỏi về tính thích đáng của mô hình nhà nước đã tồn tại hàng trăm năm. - Sự tăng cường của các mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau Toàn cầu hóa dẫn tới sự suy giảm phạm vi hoạt động của nhà nước do sự xuất hiện và phát triển của các chủ thể mới - thậm chí còn có tiềm lực và sức mạnh lớn hơn cả nhà nước. Bối cảnh này buộc nhà nước phải hoạt động trong một cấu trúc thể chế mới, tuân thủ một số giá trị chung (dân chủ, pháp quyền, quyền con người…). Bởi vì một số thiết chế quốc tế vượt lên cả quyền lực của nhà nước: sự củng cố và lớn mạnh của trật tự đa quốc gia ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh và chủ quyền nhà nước. Nhà nước theo đó phải chịu những ràng buộc và phải chia sẻ quyền lực với các chủ thể mới, logic đa quốc gia đòi hỏi tìm kiếm sự thỏa thuận thay vì cơ chế mệnh lệnh phục tùng truyền thống. Nhà nước như vậy buộc phải cạnh tranh với các chủ thể kinh tế mới như các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh, nhưng cũng có thể với cả các tổ chức phi chính phủ, thậm chí là các mạng lưới đa quốc gia đủ mọi loại hình… Các nhân tố và chủ thể mới phát triển và cạnh tranh với nhà

nước trong tiến trình ra các quyết định mang tầm quốc tế. Nhà nước phải đối diện phong trào khu vực hóa và đa phương hóa, các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực được hình thành như Alena, Mercosur, Asean… và các thực thể siêu quốc gia như Liên minh châu Âu, phát triển và mở rộng không ngừng lĩnh vực hoạt động và thẩm quyền, tới mức xâm lấn một số đặc thù vốn có của quyền lực nhà nước. -

Sự xáo trộn các chức năng nhà nước

Quá trình toàn cầu hóa đưa đến sự cần thiết phải hợp tác giữa các nhà nước, điều này dẫn tới sự đảo lộn tổng thể các chức năng của nhà nước. Nhà nước vẫn hiện diện mạnh mẽ trong đời sống xã hội, nhưng vai trò và vị trí của nó đã khác trước. Mặc dù nhà nước vẫn là thực thể bảo đảm sự gắn kết xã hội và đảm bảo an ninh, nhưng hoạt động này đã phải tiến hành trong một khuôn khổ khác trước, nhà nước phải điều đình, dàn xếp với các chủ thể khác để giải quyết nhiều công việc thay vì áp đặt một chiều bằng các mệnh lệnh hành chính. Có thể thấy, vai trò và vị trí của nhà nước trong các mối quan hệ xã hội đã thay đổi, nhà nước không còn là bề trên mà trở thành đối tác của các chủ thể khác, đây chính là quan niệm mới về nhà nước, quan niệm hậu hiện đại. Với tư cách là một chủ thể kinh tế, nhà nước phải chịu những biến đổi sâu rộng: các chính sách tư hữu hóa tác động làm kìm hãm các dịch vụ công kinh tế, trong khi đó sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa là dấu chấm hết cho mô hình kinh tế chỉ huy. Nhà nước chỉ còn đơn thuần là người điều hành và là trọng tài của sự vận hành kinh tế, trong lĩnh vực này nhà nước cũng phải điều đình, phối hợp, hợp tác với các chủ thể mới. Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, dưới sự tác động của xu hướng khủng hoảng ngân sách và nợ công, nhà nước buộc phải chuyển từ mô hình nhà nước phúc lợi sang mô hình nhà nước điều tiết. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhà nước đóng vai trò ổn định và hoạch định kinh tế vĩ mô, tái thiết quốc gia và tái phân phối, cung cấp phúc lợi cho công dân. Để đảm đương được vai trò này, nhà nước cần kiểm soát nguồn lực thông qua vai trò sở hữu những ngành công nghiệp quan trọng, can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế. Từ những năm 1970, vai trò này của nhà nước giảm sút do lạm phát, thất nghiệp, quá tải ngân sách. Do vậy, quá trình tư nhân hóa xuất hiện và chuyển đổi vai trò cung cấp dịch vụ từ công quyền sang khu vực tư. Quá trình này đòi hỏi sự giám sát của bên thứ ba và sự tham gia của khối tư nhân vào việc hoạch định và thực thi chính sách. Nhà nước phải tạo điều kiện cho chủ thể mới ngoài

nhà nước tham gia cuộc chơi, luật chơi. Điều này buộc nhà nước phải chuyển đổi mô hình từ nhà nước mệnh lệnh, nhà nước phúc lợi sang nhà nước điều tiết. Những năm 1970 ở châu Âu, trước thách thức của cạnh tranh quốc tế và gánh nặng tài chính ngày càng tăng của mô hình nhà nước phúc lợi, các quốc gia châu Âu đã buộc phải chuyển đổi mô hình quản trị, theo đó giảm vai trò chủ động, can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế và gia tăng vai trò của nhà nước điều tiết – đặt ra luật chơi thay vì đánh thuế và chi tiêu. Nhà nước buộc phải tìm kiếm các nguồn lực khác từ thị trường, kêu gọi sự tham gia của các chủ thể ngoài nhà nước. Có quan điểm cho rằng mô hình quản trị truyền thống dựa trên các quy tắc do giới chuyên gia xây dựng (hay còn gọi là mô hình quản trị theo chế độ đại diện lợi ích) cần phải được thay thế bằng một mô hình mới – mô hình quản trị hợp tác. Theo đó, mô hình này đòi hỏi sự tham gia rộng rãi, linh hoạt của các chủ thể và chia sẻ thông tin, chia sẻ trách nhiệm giữa chủ thể công (nhà nước) và các chủ thể tư trong việc xây dựng và điều chỉnh các quy tắc, quy định (lập quy hay còn gọi là điều tiết – Regulatory). Nhà nước thu hút sự tham gia của các chủ thể khác vào việc lập quy như là một nhiệm vụ quan trọng, vì những nhóm bên ngoài nhà nước có thể đóng góp năng lực cho quá trình lập quy, điều tiết các quan hệ xã hội. Giới khoa học đề xuất một mô hình quản trị công mới thể hiện nỗ lực nhận thức lại về mối quan hệ giữa nhà nước – kẻ cai trị và kẻ bị trị trong xã hội. Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự chuyển dịch sang mô hình nhà nước điều tiết là tác động của quá trình toàn cầu hóa dẫn đến sự thay đổi không gian, đối tượng điều tiết của nhà nước từ trong phạm vi quốc gia đến toàn cầu và sự thay đổi cách thức tác động đến thị trường toàn cầu hóa do sự phát triển của khoa học và công nghệ. - Giảm bớt tính đặc thù của nhà nước Sự phân chia truyền thống giữa hai lĩnh vực công pháp và tư pháp như là một mô hình chuẩn tắc có xu hướng mờ nhạt đi, ảnh hưởng tới thành tố truyền thống mang tính biểu tượng của nhà nước. Một mặt, lý thuyết “lợi ích công cộng” - dựa trên đó nhà nước tạo lập tính chính danh của mình đã phần nào mất đi sức mạnh của nó: bộ máy hành chính không còn hành động vì lợi ích công cộng, mà phải chứng minh tính hiệu quả của hoạt động, tính hiệu quả này diễn ra thông qua việc tạo dựng một hình thức quản trị công mới, dựa trên mô hình quản trị của doanh nghiệp tư nhân - hướng tới mục tiêu hiệu quả và chất lượng. Qua đó, một số chính sách cải cách hành chính được tiến hành để tạo điều kiện cho việc đánh giá

và hợp lý hóa các lựa chọn ngân sách, dẫn đến hình thức quản trị công mới phải dựa theo mô hình doanh nghiệp như các công cụ kiểm toán, các cơ quan hành chính giám sát hiệu suất quản trị... - Sự xé nhỏ của cấu trúc nhà nước Nhà nước vốn dựa trên một nguyên tắc thống nhất về bộ máy có cấu trúc chặt chẽ, thống nhất từ trên xuống dưới, nhưng trước đòi hỏi của tình hình mới, phải có những thay đổi trong quản trị nhà nước. Nguyên tắc này của nhà nước đơn nhất bị lung lay bởi xu hướng phi tập trung hóa và tản quyền, phân tán quyền lực từ nhà nước trung ương đến các đơn vị hành chính và từ nhà nước đến các chủ thể phi nhà nước. Ví dụ điển hình nhất là việc trao cho chính quyền địa phương những thẩm quyền rộng lớn, thậm chí là xu hướng tự trị địa phương ở châu Âu với Hiến chương về tự quản địa phương, xu hướng này đôi khi được nhìn nhận như một hình thức của chủ nghĩa liên bang. Nhà nước và pháp luật là hai thực thể có liên hệ chặt chẽ không thể tách rời. Nhà nước hành động thông qua pháp luật, xây dựng và ban hành các quy tắc mang tính bắt buộc và được bảo đảm thực thi chúng bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Nhà nước là một thực thể pháp lý, được quản lý và điều hành bằng pháp luật và tốt hơn nếu nhà nước được kiềm chế, kiểm soát bằng pháp luật. Sự liên kết chặt chẽ giữa nhà nước và pháp luật mạnh mẽ đến mức một số nhà lý luận pháp luật đã khẳng định sự đồng nhất tuyệt đối của nhà nước và pháp luật, tạo nên một “trật tự cưỡng chế” duy nhất.  Liên hệ với nhà nước CHXHCN Việt Nam: Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của kinh tế và khoa học công nghệ vượt khỏi biên giới quốc gia hình thành nền kinh tế thế giới thu hút ngày càng nhiều các nước tham gia, vừa hợp tác vừa cạnh tranh và đấu tranh với nhau. Không thể có một quốc gia nào có thể phát triển bình thường nếu đứng ngoài xu thế toàn cầu hoá. Toàn cầu hóa là xu hướng tất yếu và ngày càng mở rộng. Tính tất yếu của toàn cầu hóa trước hết được biểu hiện ở tính tất yếu về kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế là khía cạnh quan trọng nhất của toàn cầu hóa; nó tác động sâu sắc đến lĩnh vực chính trị. Những thay đổi về chính trị lại tác động về kinh tế và văn hóa. - Về văn hóa :

+ Xu thế toàn cầu hoá đang tác động đến những giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực. Một mặt, nó "góp phần nâng cao trình độ tư duy khoa học của xã hội công nghiệp, thể hiện ở việc phổ biến các giá trị văn hóa công nghệ, văn hóa thông tin cùng các hoạt động và loại hình văn hóa mới phục vụ cho việc nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân" và qua đó, góp phần làm giàu thêm, phong phú thêm các giá trị văn hoá Việt Nam truyền thống. Mặt khác, nó cũng đang đặt ra trước dân tộc ta những thách thức lớn trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống. Vấn đề đạo đức xã hội đang diễn ra phức tạp, các bậc thang giá trị có phần bị đảo lộn; tinh thần đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cái tiến bộ và cái lạc hậu, cái đúng và cái sai lại ít được đề cao. - Về an ninh, chính trị: + Việt Nam tiếp tục nâng cao vị thế của mình trong quan hệ với các nước lớn, nhất là các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong ASEAN. Chủ động tham gia xử lý các vấn đề quốc tế và khu vực. Thể hiện vai trò của Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. + Sự phát triển của đất nước ta trong điều kiện hiện nay đòi hỏi nhà nước phải ưu tiên các biện pháp mạnh mẽ nhằm đảm bảo sự ổn định về an ninh chính trị. Nhà nước đã sử dụng toàn bộ sức mạnh của mình để phòng ngừa ngăn chặn mọi âm mưu gây rối, xâm hại đến nền an ninh quốc gia, đến sự ổn định chính trị trong nước đồng thời kiên quyết trấn áp mọi hành động của thế lực thù địch, âm mưu chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. - Về kinh tế: Việt Nam bắt đầu tiến hành mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới từ năm 1986. Nhờ chủ trương đổi mới, mở cửa, trong gần 20 năm qua, Việt Nam đã thu được những thành tựu hết sức to lớn trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Trên lĩnh vực kinh tế, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao trong khu vực. Chẳng hạn, trong thập kỷ 70, tốc độ tăng trưởng GNP trung bình hàng năm của các nước, các vùng lãnh thổ trong khu vực là: 9,6% (Hàn Quốc), 8,3% (Hồng Kông), 7,9% (Malaixia), 7,2% (Inđônêxia), 7,1% (Thái Lan) và 6% (Philippin). Nhưng từ 1980 đến 1991, tốc độ tăng GNP hàng năm đã có sự thay đổi như sau: 9,6% ở Hàn Quốc, 9,4% ở Trung Quốc, 6,9% ở Hồng Kông, 6,6% ở Singgapo, 5,7% ở Malaixia, 5,6% ở Inđônêxia, ở Philippin chỉ là 1,1%(7). Tính từ 1985 đến 1996, tốc độ tăng trưởng GNP hàng năm của Việt Nam là trên 8,5%, từ năm 2001- 2005, tốc độ đó đạt mức trên dưới 8%. Như vậy, nếu so sánh với các nước, các vùng lãnh

thổ trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được xếp vào hàng cao nhất trong những năm gần đây. Tuy nhiên, ngay từ năm 1994, nhiều nhà kinh tế cũng như lãnh đạo của Việt Nam đã nói đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Cho đến nay, trải qua hơn 10 năm tiếp tục đổi mới, nguy cơ đó vẫn tồn tại và hết sức lớn. Để tránh nguy cơ đó, trong những năm gần đây, Việt Nam chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hóa, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong môi trường hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn để khắc phục nguy cơ tụt hậu. Tuy nhiên, chủ trương đó được thực hiện trong điều kiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế tuy có tiến bộ, nhưng vẫn còn thấp xa so với yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế; tích luỹ từ nền kinh tế để công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn thấp; kết cấu hạ tầng lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, v.v.. Do vậy, những khó khăn của việc thực hiện quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa là không nhỏ. Xét về mặt cơ cấu của nền kinh tế, Việt Nam vẫn là nước nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn. Sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp và nông thôn sang các ngành nghề khác còn rất khó khăn. Tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ có phần chững lại. Tỷ lệ lao động được đào tạo và lao động có trình độ cao còn rất thấp. Sự lãng phí trong đầu tư còn quá lớn. Thêm vào đó, nền công nghiệp lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở 2 đầu của đất nước. Người lao động có trình độ cao chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Do đó, sự phát triển công nghiệp ở các vùng sâu, vùng xa đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Bên cạnh đó, những tiềm năng của các thành phần kinh tế chưa được phát huy hết. Kinh tế nhà nước chưa làm tốt được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tập thể chậm phát triển. Kinh tế tư nhân chưa phát triển đúng với tiềm năng của nó nhằm tạo động lực cho toàn bộ nền kinh tế, v.v.. Những thách thức về kinh tế sẽ tăng lên gấp bội, nếu như trong vài năm tới, nước ta hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là nguy cơ thực tế. Bản thân nguy cơ này có bị loại trừ hay không, điều đó phụ thuộc vào sự thành công của công cuộc đổi mới và sự chuẩn bị các nguồn lực cho quá trình hội nhập tiếp theo của nền kinh tế. - Về xã hội: + Thông qua hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã tiếp thu được khoa học, công nghệ mới và cách quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực, qua đó góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhờ tranh thủ được các

nguồn vốn đầu tư và viện trợ quốc tế, nhiều lĩnh vực hạ tầng như Bưu chính viễn thông, Công nghệ thông tin, Giao thông vận tải… đã phát triển đáng kể, tạo tiền đề và cơ sở quan trọng, đáp ứng yêu cầu, tạo thuận lợi cho hội nhập ở tất cả các lĩnh vực khác. + Hiện nay nhà nước xem giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước đang dần hoàn thiện và nâng cao bộ máy của nền giáo dục nhằm nâng cao dân trí, dào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. + Trước hết là nạn thất nghiệp và thiếu việc làm: Kể từ khi nước ta bắt đ...


Similar Free PDFs