KINH-TẾ-VĨ-MÔBTL NG - tài liệu về các môn học nguye lý mar nhà nuoc va pháp luat dai cương PDF

Title KINH-TẾ-VĨ-MÔBTL NG - tài liệu về các môn học nguye lý mar nhà nuoc va pháp luat dai cương
Course Quan Tri Kinh Doanh Khach San
Institution Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Pages 15
File Size 281 KB
File Type PDF
Total Views 27

Summary

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ( Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế )TIỂU LUẬNĐỀ TÀI:CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNHHOA KỲ 2007 - 2009Giảng viên hướng dẫn: TS Trung Chính Môn: Kinh tế vĩ mô Sinh viên thực hiện: Mã sinh viên: Ngày sinh: Lớp: QH– 2020-E KTQT CLC 6Hà Nội – Tháng 7/Bài làmCâu 1...


Description

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ (Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế)

TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI:

CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH HOA KỲ 2007 - 2009

Giảng viên hướng dẫn: TS.Phan Trung Chính Môn: Kinh tế vĩ mô Sinh viên thực hiện: Mã sinh viên: Ngày sinh: Lớp: QH– 2020-E KTQT CLC 6

Hà Nội – Tháng 7/2021

Bài làm

Câu 1:

1.1 Chức năng của nhà nước:

+ Khái niệm: là hoạt động nhà nước cơ bản nhất, mang tính thường xuyên, liên tục, ổn định tương đối, xuất phát từ bản chất, cơ sở kinh tế-xã hội, nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu cơ bản của nhà nước và có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của nhà nước.

+ Cần phân biệt chức năng của nhà nước với: . hoạt động của nhà nước . nhiệm vụ (chiến lược) của nhà nước . chức năng của cơ quan nhà nước

+ Các mối quan hệ của chức năng nhà nước: +) Với nhiệm vụ (chiến lược) của nhà nước: ∙ Nhiệm vụ là cơ sở để xác định nội dung, hình thức, số lượng, phương pháp thực hiện chức năng của nhà nước. ∙ Chức năng của nhà nước là phương thức để thực hiện nhiệm vụ của nhà nước. +) Với bản chất của nhà nước, cơ sở kinh tế-xã hội: ∙ Bản chất của nhà nước sẽ quyết định chức năng của nhà nước. ∙ Chức năng của nhà nước sẽ thể hiện bản chất của nhà nước đó. ∙ Tác động tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển của kinh tế-xã hội.

+ Tính khách quan và chủ quan của chức năng nhà nước: +) Tính khách quan: ∙ Chức năng của nhà nước được hình thành một cách khách quan dưới tác động chủ đạo của nhiệm vụ nhà nước, sự quyết định của bản chất nhà nước và điều kiện khách quan của cơ sở kinh tế-xã hội. ∙ Nhu cầu khách quan từ phía xã hội đòi hỏi nhà nước phải thực hiện các hoạt động tương ứng.

∙ Sự thay đổi trong điều kiện kinh tế-xã hội sẽ kéo theo sự thay đổi khách quan của chức năng nhà nước. +) Tính chủ quan: ∙ Các nhà quản lý nhà nước qua lăng kính chủ quan của mình để nhận thấy những đòi hỏi cần phải có trong hoạt động nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ(chiến lược) nhà nước, phản ánh trình độ nhận thức về thực tại khách quan của điều kiện kinh tế-xã hội. ∙ Phụ thuộc vào sư quan tâm của nhà nước đối với các nhu cầu đòi hỏi từ phía xã hội.

+ Phân loại chức năng của nhà nước: +) Căn cứ theo lĩnh vực hoạt động: ∙ Nhóm chức năng đối nội ∙ Nhóm chức năng đối ngoại +) Căn cứ vào hình thức (pháp lý) thực hiện quyền lực nhà nước: ∙ Chức năng lập pháp: xây dựng ban hành pháp luật ∙ Chức năng hành pháp: tổ chức thực hiện pháp luật ∙ Chức năng tư pháp: bảo vệ pháp luật +) Căn cứ theo lĩnh vực hoạt động của nhà nước: ∙ Chức năng chính trị ∙ Chức năng kinh tế ∙ Chức năng xã hội +) Ngoài ra, chức năng nhà nước theo từng tiêu chí khác nhau có thể được chia thành: ∙ Chức năng trấn áp và chức năng xây dựng ∙ Chức năng cơ bản và chức năng không cơ bản ∙ Chức năng lâu dài và chức năng trươc mắt (tạm thời)

+ Những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng nhà nước: nhìn chung, nhiệm vụ và bản chất của nhà nước là 2 yếu tố ảnh hưởng đến chức năng của nhà nước. ∙ Lịch sử phát triển của từng dân tộc, truyền thống-văn hoá-hệ tư tưởng.

∙ Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế trong xã hội. ∙ Cơ cấu-phân tầng xã hội, mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích trong xã hội. ∙ Quyền con người, dân chủ và toàn cầu hoá. ∙ Trình độ và trách nhiệm của các nhà chính trị, các nhà quản lý nhà nước.

+ Hình thức, phương pháp thực hiện chức năng nhà nước: +) Hình thức: ∙ Hình thức pháp lý: các phương diện, hoạt động cơ bản của nhà nước được thực hiện trên cơ sở các quy định pháp luật, là hình thức cơ bản để thực hiện chức năng nhà nước. ∙ Hình thức tổ chức: phương thức mang tính tổ chức của các phương diện, hoạt động cơ bản của nhà nước, cùng với hình thức pháp ly giúp chức năng nhà nước được thực hiện nhịp nhàng, hiệu quả. +) Phương pháp thực hiện: ∙ Phương pháp thuyết phục: là cách thức theo đó nhà nước động viên khuyến khích, tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện một cách tự giác. ∙ Phương pháp cưỡng chế: là cách thức mà theo đó các nội dung, yêu cầu của nhag nước được các đối tượng có liên quan thức hiện một cách bắt buộc.

+ Chức năng nhà nước qua các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến và tư sản: . Chức năng đối nội: - Ghi nhận và bảo vệ đặc quyền chính trị của giai cấp thống trị trong xã hội. - Bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của giao cấp thống trị. - Trấn áp giai cấp bị trị. - Tổ chức, quản lý xã hội theo một trật tự nhất định. - Tạo cơ sở thuận lợi cho sự phát triển kinh tế. - Đáp ứng trong điều kiện nhất định các nhu cầu đòi hỏi từ phía xã hội. - Từng bước ghi nhận quyền tự do dân chủ của con người. . Chức năng đối ngoại: - Tiến hành chiến tranh xâm lược. - Phòng thủ, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn của quốc gia. - Hoạt động ngoại giao theo chính sách đối ngoại của từng giai đoạn, quốc gia.

1.2 Sự thay đổi chức năng của nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và liên hệ với nhà nước CHXHCNVN: -

Sự phổ biến của các mô hình nhà nước

Mô hình nhà nước hiện đại được hình thành vào cuối thế kỷ XVIII-XIX ở các nước phương Tây và dần phổ biến với tư cách tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt. Theo đó, nhà nước được thiết lập từ một cộng đồng người, có bộ máy được cấu trúc chặt chẽ, khoa học để quản lý, cai trị dân cư trên một lãnh thổ xác định. Trong phạm vi lãnh thổ xác định với khối cư dân tương đối ổn định đó, nhà nước giữ độc quyền cưỡng chế. Mô hình nhà nước dựa trên ba thành tố này được phổ biến khắp thế giới và phạm vi can thiệp của nhà nước không ngừng được mở rộng. Đỉnh điểm của xu hướng này là sự lên ngôi của nhà nước phúc lợi, nhưng chính mô hình nhà nước này cũng lâm vào khủng hoảng vào cuối thế kỷ XX dưới sự tác động của các nhân tố kinh tế (gánh nặng nợ công do quá trình mở rộng các dịch vụ công và phúc lợi xã hội) và chính trị (đòi hỏi về hiệu quả trong quản trị quốc gia), dẫn tới sự đánh giá lại vai trò, vị trí của nhà nước. Toàn cầu hóa đặt ra những câu hỏi về tính thích đáng của mô hình nhà nước đã tồn tại hàng trăm năm. - Sự tăng cường của các mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau Toàn cầu hóa dẫn tới sự suy giảm phạm vi hoạt động của nhà nước do sự xuất hiện và phát triển của các chủ thể mới - thậm chí còn có tiềm lực và sức mạnh lớn hơn cả nhà nước. Bối cảnh này buộc nhà nước phải hoạt động trong một cấu trúc thể chế mới, tuân thủ một số giá trị chung (dân chủ, pháp quyền, quyền con người…). Bởi vì một số thiết chế quốc tế vượt lên cả quyền lực của nhà nước: sự củng cố và lớn mạnh của trật tự đa quốc gia ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh và chủ quyền nhà nước. Nhà nước theo đó phải chịu những ràng buộc và phải chia sẻ quyền lực với các chủ thể mới, logic đa quốc gia đòi hỏi tìm kiếm sự thỏa thuận thay vì cơ chế mệnh lệnh phục tùng truyền thống. Nhà nước như vậy buộc phải cạnh tranh với các chủ thể kinh tế mới như các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh, nhưng cũng có thể với cả các tổ chức phi chính phủ, thậm chí là các mạng lưới đa quốc gia đủ mọi loại hình… Các nhân tố và chủ thể mới phát triển và cạnh tranh với nhà nước trong tiến trình ra các quyết định mang tầm quốc tế. Nhà nước phải đối diện phong trào khu vực hóa và đa phương hóa, các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực được hình thành như Alena, Mercosur, Asean… và các thực thể siêu quốc gia như Liên minh châu Âu, phát triển và mở rộng không ngừng lĩnh

vực hoạt động và thẩm quyền, tới mức xâm lấn một số đặc thù vốn có của quyền lực nhà nước. -

Sự xáo trộn các chức năng nhà nước

Quá trình toàn cầu hóa đưa đến sự cần thiết phải hợp tác giữa các nhà nước, điều này dẫn tới sự đảo lộn tổng thể các chức năng của nhà nước. Nhà nước vẫn hiện diện mạnh mẽ trong đời sống xã hội, nhưng vai trò và vị trí của nó đã khác trước. Mặc dù nhà nước vẫn là thực thể bảo đảm sự gắn kết xã hội và đảm bảo an ninh, nhưng hoạt động này đã phải tiến hành trong một khuôn khổ khác trước, nhà nước phải điều đình, dàn xếp với các chủ thể khác để giải quyết nhiều công việc thay vì áp đặt một chiều bằng các mệnh lệnh hành chính. Có thể thấy, vai trò và vị trí của nhà nước trong các mối quan hệ xã hội đã thay đổi, nhà nước không còn là bề trên mà trở thành đối tác của các chủ thể khác, đây chính là quan niệm mới về nhà nước, quan niệm hậu hiện đại. Với tư cách là một chủ thể kinh tế, nhà nước phải chịu những biến đổi sâu rộng: các chính sách tư hữu hóa tác động làm kìm hãm các dịch vụ công kinh tế, trong khi đó sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa là dấu chấm hết cho mô hình kinh tế chỉ huy. Nhà nước chỉ còn đơn thuần là người điều hành và là trọng tài của sự vận hành kinh tế, trong lĩnh vực này nhà nước cũng phải điều đình, phối hợp, hợp tác với các chủ thể mới. Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, dưới sự tác động của xu hướng khủng hoảng ngân sách và nợ công, nhà nước buộc phải chuyển từ mô hình nhà nước phúc lợi sang mô hình nhà nước điều tiết. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhà nước đóng vai trò ổn định và hoạch định kinh tế vĩ mô, tái thiết quốc gia và tái phân phối, cung cấp phúc lợi cho công dân. Để đảm đương được vai trò này, nhà nước cần kiểm soát nguồn lực thông qua vai trò sở hữu những ngành công nghiệp quan trọng, can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế. Từ những năm 1970, vai trò này của nhà nước giảm sút do lạm phát, thất nghiệp, quá tải ngân sách. Do vậy, quá trình tư nhân hóa xuất hiện và chuyển đổi vai trò cung cấp dịch vụ từ công quyền sang khu vực tư. Quá trình này đòi hỏi sự giám sát của bên thứ ba và sự tham gia của khối tư nhân vào việc hoạch định và thực thi chính sách. Nhà nước phải tạo điều kiện cho chủ thể mới ngoài nhà nước tham gia cuộc chơi, luật chơi. Điều này buộc nhà nước phải chuyển đổi mô hình từ nhà nước mệnh lệnh, nhà nước phúc lợi sang nhà nước điều tiết. Những năm 1970 ở châu Âu, trước thách thức của cạnh tranh quốc tế và gánh nặng tài chính ngày càng tăng của mô hình nhà nước phúc lợi, các quốc

gia châu Âu đã buộc phải chuyển đổi mô hình quản trị, theo đó giảm vai trò chủ động, can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế và gia tăng vai trò của nhà nước điều tiết – đặt ra luật chơi thay vì đánh thuế và chi tiêu. Nhà nước buộc phải tìm kiếm các nguồn lực khác từ thị trường, kêu gọi sự tham gia của các chủ thể ngoài nhà nước. Có quan điểm cho rằng mô hình quản trị truyền thống dựa trên các quy tắc do giới chuyên gia xây dựng (hay còn gọi là mô hình quản trị theo chế độ đại diện lợi ích) cần phải được thay thế bằng một mô hình mới – mô hình quản trị hợp tác. Theo đó, mô hình này đòi hỏi sự tham gia rộng rãi, linh hoạt của các chủ thể và chia sẻ thông tin, chia sẻ trách nhiệm giữa chủ thể công (nhà nước) và các chủ thể tư trong việc xây dựng và điều chỉnh các quy tắc, quy định (lập quy hay còn gọi là điều tiết – Regulatory). Nhà nước thu hút sự tham gia của các chủ thể khác vào việc lập quy như là một nhiệm vụ quan trọng, vì những nhóm bên ngoài nhà nước có thể đóng góp năng lực cho quá trình lập quy, điều tiết các quan hệ xã hội. Giới khoa học đề xuất một mô hình quản trị công mới thể hiện nỗ lực nhận thức lại về mối quan hệ giữa nhà nước – kẻ cai trị và kẻ bị trị trong xã hội. Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự chuyển dịch sang mô hình nhà nước điều tiết là tác động của quá trình toàn cầu hóa dẫn đến sự thay đổi không gian, đối tượng điều tiết của nhà nước từ trong phạm vi quốc gia đến toàn cầu và sự thay đổi cách thức tác động đến thị trường toàn cầu hóa do sự phát triển của khoa học và công nghệ. - Giảm bớt tính đặc thù của nhà nước Sự phân chia truyền thống giữa hai lĩnh vực công pháp và tư pháp như là một mô hình chuẩn tắc có xu hướng mờ nhạt đi, ảnh hưởng tới thành tố truyền thống mang tính biểu tượng của nhà nước. Một mặt, lý thuyết “lợi ích công cộng” - dựa trên đó nhà nước tạo lập tính chính danh của mình đã phần nào mất đi sức mạnh của nó: bộ máy hành chính không còn hành động vì lợi ích công cộng, mà phải chứng minh tính hiệu quả của hoạt động, tính hiệu quả này diễn ra thông qua việc tạo dựng một hình thức quản trị công mới, dựa trên mô hình quản trị của doanh nghiệp tư nhân - hướng tới mục tiêu hiệu quả và chất lượng. Qua đó, một số chính sách cải cách hành chính được tiến hành để tạo điều kiện cho việc đánh giá và hợp lý hóa các lựa chọn ngân sách, dẫn đến hình thức quản trị công mới phải dựa theo mô hình doanh nghiệp như các công cụ kiểm toán, các cơ quan hành chính giám sát hiệu suất quản trị... - Sự xé nhỏ của cấu trúc nhà nước

Nhà nước vốn dựa trên một nguyên tắc thống nhất về bộ máy có cấu trúc chặt chẽ, thống nhất từ trên xuống dưới, nhưng trước đòi hỏi của tình hình mới, phải có những thay đổi trong quản trị nhà nước. Nguyên tắc này của nhà nước đơn nhất bị lung lay bởi xu hướng phi tập trung hóa và tản quyền, phân tán quyền lực từ nhà nước trung ương đến các đơn vị hành chính và từ nhà nước đến các chủ thể phi nhà nước. Ví dụ điển hình nhất là việc trao cho chính quyền địa phương những thẩm quyền rộng lớn, thậm chí là xu hướng tự trị địa phương ở châu Âu với Hiến chương về tự quản địa phương, xu hướng này đôi khi được nhìn nhận như một hình thức của chủ nghĩa liên bang. Nhà nước và pháp luật là hai thực thể có liên hệ chặt chẽ không thể tách rời. Nhà nước hành động thông qua pháp luật, xây dựng và ban hành các quy tắc mang tính bắt buộc và được bảo đảm thực thi chúng bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Nhà nước là một thực thể pháp lý, được quản lý và điều hành bằng pháp luật và tốt hơn nếu nhà nước được kiềm chế, kiểm soát bằng pháp luật. Sự liên kết chặt chẽ giữa nhà nước và pháp luật mạnh mẽ đến mức một số nhà lý luận pháp luật đã khẳng định sự đồng nhất tuyệt đối của nhà nước và pháp luật, tạo nên một “trật tự cưỡng chế” duy nhất.  Liên hệ với nhà nước CHXHCN Việt Nam:

Câu 2: 2.1 Vi phạm pháp luật: a) Khái niệm: - Vi phạm pháp luật là một hiện tượng nguy hiểm, tác động tiêu cực và làm mất ổn định xã hội. Tính nguy hiểm thể hiện ở chỗ nó xâm hại tới lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, xã hội. => Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. - Là một hiện tượng xã hội, vi phạm pháp luật có dấu hiệu cơ bản sau: * Dấu hiệu hành vi: vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người (ý nghĩ của con người dù đen tối, tiêu cực nhưng chưa thể hiện thành thao tác, cử chỉ thì ko phải là vi phạm pháp luật. Những hiện tượng tự nhiên dù gây thiệt hại thế nào cũng ko phải là vi phạm pháp luật)

* Dấu hiệu trái pháp luật: vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, xâm hại tới các qh xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ – Một hành vi được coi là trái pháp luật khi nó ko phù hợp với các quy định của pháp luật, xâm hại tới…Thông thường, một người ko phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình nếu hành vi đó chưa được pháp luật quy định => sự quy định trước của pháp luật là cơ sở pháp lý để xác định tính trái pháp luật trong một hành vi cụ thể – Hành vi của con người có thể được các quy phạm xã hội khác nhau cùng điều chỉnh * Dấu hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý: vi phạm pháp luật là hành vi của chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý – Một người đc coi là có năng lực trách nhiệm pháp lý khi họ có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, đồng thời đạt đến độ tuổi do pháp luật quy định => nhận thức được hành vi của mình đúng hay sai theo chuẩn mực xã hội => Hành vi do người k có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện dù có trái pháp luật cũng ko phải là vi phạm pháp luật * Dấu hiệu lỗi: vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi của chủ thể – Lỗi: điều sai sót, ko nên, ko phải trong xử sự, hành động. Trong KH pháp lý, lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ tiêu cực của một người đối với hành vi trái pháp luật của họ và hậu quả của hành vi đó. – Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi trái pháp luật có kết quả của sự tự lựa chọn >< một hành vi dù trái pháp luật nhưng trong trường hợp chủ thể ko có sự lựa chọn nào khác thì người đó ko có lỗi => ko vi phạm pháp luật => Tóm lại, một hiện tượng cụ thể chỉ bị coi là vi phạm pháp luật khi chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu này. Chỉ những hành vi trái pháp luật của người có năng lực trách nhiệm pháp luật ý thực hiện trong trường hợp có lỗi mới bị coi là vi phạm pháp luật. b) Cấu thành vi phạm pháp luật: Cấu thành vi phạm pháp luật là toàn bộ những yếu tố, những bộ phận làm thành một vi phạm pháp luật cụ thể, bao gồm mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan và khách thể. * Mặt khách quan của vi phạm pháp luật: là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan của vi phạm pháp luật.

+ Khoa học pháp lý phân biệt 2 hình thức biểu hiện của hành vi trái pháp luật là hành động và không hành động (hành động: chủ thể có hành vi bị pháp luật cấm ; ko hành động: chủ thể ko thực hiện sự bắt buộc của pháp luật). + Sự thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội được gọi là hậu quả của vi phạm pháp luật. Biểu hiện: sự biến đổi tình trạng bt của các quan hệ xã hội bị xâm hại, có thể là thiệt hại cụ thể như tài sản, tính mạng hoặc trừu tượng như nhân phẩm, danh dự… => thiệt hại cho xã hội là cơ sở đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật. + Giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả nó gây ra có mối quan hệ nhân quả. * Chủ thể của vi phạm pháp luật: là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. . cá nhân: con người cụ thể, năng lực trách nhiệm pháp lý xác định trên cơ sở tuổi, khả năng nhận thức. . tổ chức: nhóm người có liên kết chặt chẽ, thành lập hoạt động nhằm đạt mục tiêu nhất định. => phân biệt: tổ chức là chủ thể vi phạm pháp luật phải là tổ chức hợp pháp >< vi phạm pháp luật có tổ chức: một nhóm người liên kết với nhau cùng vi phạm pháp luật, sự tồn tại của họ là bất hợp pháp. * Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: những biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật. - Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật: thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể. Chủ thể bị coi là có thái độ tiêu cực đối với xã hội khi họ có ý thức phủ định lợi ích xã hội. Dựa vào thái độ có 2 loại lỗi: • Lỗi cố ý: chủ thể có ý thức để xảy ra thiệt hại cho xã hội + cố ý trực tiếp: mong muốn hậu quả xảy ra. + cố ý gián tiếp: mặc hậu quả xảy ra. => khác biệt rõ nhất là ở thái độ của người vi phạm đối với hậu quả do hành vi họ gây ra. • Lỗi vô ý: chủ thể ko chủ ý gây thiệt hại + vô ý do quá tự tin: cân nhắc và loại trừ khả năng gây hậu quả. + vô ý do cẩu thả: chủ thể có nghĩa vụ tuân theo quy tắc nhất định nhưng do cẩu thả nên đã ko thực hiện gây nên thiệt hại.

- Động cơ vi phạm: là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật => Phân biệt : động cơ hành vi nói chung và động cơ vi phạm pháp luật • Theo tâm lý học, hành vi của con người trong trạng thái tâm lý biết được thúc đẩy bởi động cơ nào đó do nhu cầu, xúc cảm, tình cảm và sự tác động của TG bên ngoài. • Vi phạm pháp luật chỉ có yếu tố động cơ khi và chỉ khi người vi phạm nhận thức được hành vi của họ là vi phạm pháp luật => do đó chỉ có những vi phạm có lỗi cố ý mới có yếu tố động cơ. - Mục đích vi phạm: là kết quả trong ý thức mà chủ thể vi phạm pháp luật đặt ra và mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. => chỉ những vi phạm pháp luật với lỗi cố ý trực tiếp mới có yếu tố mục đích. => Phân biệt: Mục đích của vi phạm pháp luật và mục đích của hành vi nói chung. • Mục đích của vi phạm pháp luật là kết quả trong ý thức >< hậu quả của vi phạm pháp luật là kết quả thực tế. - Khách thể vi phạm pháp luật: là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng vị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. • Một hành vi vi phạm pháp luật có thể xâm phạm đồng thời một hoặc nhiều qhệ xã hội hay một hành vi vi phạm có thể có nhiều khách thể, các khách thể có tầm quan trọng khác nhau trong đời sống xã hội => tính chất của khách thể là cơ sở để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật. => Phân biệt : khách thể vi phạm pháp luật và đối tượng của vi phạm pháp luật. Đối tượng của vi phạm pháp luật: là những sự vật hiện tượng cụ thể mà khi tác động lên nó, người vi phạm gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ (xâm hại các quan hệ xã hội, vi phạm pháp luật tác động đến từng bộ phận cấu thành nên quan hệ xã hội đó => bộ phận đó là đối tượng vi phạm pháp luật). c) Phân loại vi phạm pháp luật: Phân loại vi phạm pháp luật là cơ sở để xác định loại trách nhiệm pháp lý thích hợp. * Vi phạm hình sự ...


Similar Free PDFs