bài tiểu luận tham khảo năm 2020/2021 PDF

Title bài tiểu luận tham khảo năm 2020/2021
Author Hải Hoàng Long
Course Lịch sử các học thuyết kinh tế
Institution Học viện Ngân hàng
Pages 15
File Size 260.1 KB
File Type PDF
Total Downloads 568
Total Views 923

Summary

Download bài tiểu luận tham khảo năm 2020/2021 PDF


Description

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần : LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ

ĐỀ TÀI: Phân tích lý thuyết bàn tay vô hình của A.Smith. Chứng minh rằng lý thuyết cân bằng của L.Walras là sự kế tục và phát triển lý thuyết bàn tay vô hình của A.Smith

Giảng viên hướng dẫn : Sinh viên thực hiện : Lớp : Mã sinh viên :

Phạm Thị Nguyệt Nguyễn Trường Sơn 201ECO06A05 22A4010414

Hà nội, ngày 19 tháng 01 năm 2021

1

LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………3 NỘI DUNG……………………………………………………………4 I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ADAM SMITH…………………..4 II. PHÂN TÍCH LÝ THUYẾT BÀN TAY VÔ HÌNH CỦA ADAM SMITH………………………………………………………………...4 NHẬN XÉT…………………………………………………………...7 Ý NGHĨA……………………………………………………………..7 III.LÝ THUYẾT CÂN BẰNG THỊ TRƯỜNG CỦA L.WALRAS…..8 ĐIỂM KẾ THỪA……………………………………………………..9 IV.VẬN DỤNG CÁC LÝ THUYẾT VÀO NỀN KIH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY…………………………………………...10 KẾT LUẬN…………………………………………………………..14 TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………15

2

LỜI MỞ ĐẦU Nửa cuối thế kỉ XVII, chủ nghĩa trọng thương dần lụi. Ở nước Anh và Pháp, trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển dần xuất hiện để thay thế. Họ đã đưa ra những lý thuyết làm mới cơ sở lý luận cho kinh tế của giai cấp tư sản, hướng lợi ích của họ vào lĩnh vực sản xuất. Trong 3 nhà kinh tế học quan trọng nhất thế giới là Adam Smith, Karl Marx và John Maynard Keyness thì Adam Smith là một trong những học giả đại diện của trường phái chính trị tư sản cổ điển. Ông nổi tiếng với tác phẩm vĩ đại “Tìm hiểu về bản chất và của cải của các quốc gia” – một tác phẩm đã dẫn đường cho nền kinh tế ngày nay. Trong tác phẩm của mình ông đã chỉ ra có một “ bàn tay vô hình” chi phối tài sản và cách thức của nền kinh tế. Ông biện luận rằng mỗi một cá nhân đều muốn thu lại lợi nhuận lớn nhất cho mính sẽ làm tối đa lợi ích của cả cộng đồng, điều này giống như việc cộng toàn bộ tất cả lợi ích của từng cá nhân lại. Lý thuyết này của ông đã có ảnh hường rất lớn đối với chủ nghĩa tư bản, nó đã chế ngự trong suốt thế kỉ XIX. Tuy nhiên sự phát triển nhanh về kĩ thuật, sự ra đời của máy móc làm cho hang hóa được sản xuất hàng loạt dường như không có điểm dừng để thỏa mãn nhu cầu chạy theo tỉ suất lợi nhuận của các nhà tư bản, và sự giãn nở của kinh tế đã vượt quá tầm kiểm soát của “ bàn tay vô hình”. Nền sản xuất mất cân đối, cung lớn hơn cầu, ngoài ra còn do sự tác động của “trạng thái giả tạo” cùng với sự ích kỉ của các ngân hàng, tất yếu sẽ đẩy nền kinh tế tới tình trạng khủng hoảng toàn cầu. Đó chính là nhược điểm của lý thuyết “bàn tay vô hình”. Do đó, lý thuyết cân bằng thị trường của L.Walras được coi là sự kế tục và phát triển lý thuyết bàn tay vô hình của A.Smith. Lý thuyết cân bằng tổng quát được các nhà kinh tế học tư sản đánh giá cao.

3

Nhận thấy sự quan trọng của vấn đề trên, em đã quyết định chọn đề tài 7 : “Phân tích lý thuyết bàn tay vô hình của A.Smith. Chứng minh rằng lý thuyết cân bằng thị trường của L.Walras được coi là sự kế tục và phát triển lý thuyết bàn tay vô hình của A.Smith”.

NỘI DUNG I- GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ADAM SMITH Adam Smith (1723-1790), sinh ở Scotland tại thành phố nhỏ Kirkaldy, là con của một viên chức ngành thuế. Ông là một người có tài năng bẩm sinh, năm 14 tuổi ông đã vào trường đại học Glasgow, sau đó tiếp tục theo học đại học Oxford và trở thành nhà lý luận kinh tế chính trị học cổ điển nổi tiếng của Anh. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông có 13 năm nghiên cứu và giảng dạy về kinh tế, thần học, luật học, chính trị học, logic học ở các trường đại học Glasgow và Edinburgh. Các tác phẩm nổi tiếng của ông: • Lý luận về những tình cảm đạo đức - 1759 • The Wealth of Nations (sự giàu có của các quốc gia) – 1776 II. PHÂN TÍCH LÝ THUYẾT BÀN TAY VÔ HÌNH CỦA ADAM SMITH Adam Smith là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên thế giới, là tiền bối lớn nhất của Mác. Ông có nhiều lý luận rất có giá trị trong đó chúng ta phải nhắc đến lý thuyết “bàn tay vô hình” của ông. Học thuyết “bàn tay vô hình” nghiên cứu cơ chế hoạt động của một cơ chế thị

4

trường cạnh tranh và nó cũng phản ánh quan điểm chung của các nhà kinh tế học cổ điển. Bàn tay vô hình đó chính là các quy luật kinh tế khách quan chi phối hành động của con người. Adam Smith gọi hệ thống các quy luật khách quan đó là một trật tự thiên định. Ông chỉ ra các điều kiện cần thiết để cho các quy luật hoạt động là: phải có sự tồn tại và phát triển sản xuất trao đổi hàng hóa, nền kinh tế phải phát triển trên cơ sở tự do kinh tế, tự do mậu dịch. Quá trình ấy được thực hiện bởi chính quá trình cạnh tranh giữa các lợi ích cá nhân. Không ai cần kế hoạch, không ai cần mệnh lệnh, thị trường sẽ tự động giải quyết tất cả. A.Smith cho rằng mỗi cá nhân đều cố gắng sử dụng vốn của mình sao cho có được sản phẩm có giá trị cao nhất. Thông thường, cá nhân này không có chủ định củng cố lợi ích công cộng, mà cũng chẳng biết mình đang củng cố lợi ích này ở mức độ nào. Cá nhân này chỉ có mục đích bảo vệ sự an toàn và thành quả riêng của mình. Khi chạy theo lợi ích cá nhân thì lợi ích công cộng cũng được hình thành bởi một bàn tay vô hình dẫn dắt mọi người phục vụ cho lợi ích công, phục vụ cho lợi ích xã hội. Bàn tay vô hình đó không nằm trong ý muốn ban đầu của con người. A.Smith đã đề cao hiệu quả của lợi ích cá nhân, theo ông: con người bao giờ cũng cần đến những đồng loại của mình và thật vô ích khi chờ đợi sự tử tế duy nhất của họ… Anh hãy đưa cho tôi cái tôi cần, và anh sẽ có được ở tôi cái mà chính anh cần. Thị trường sẽ tạo ra sự hài hoà giữa các lợi ích bằng phương cách của nó, ông cho rằng: cứ để cho một cá nhân nào đó chạy theo lòng ham lợi của mình, anh ta sẽ thấy mọc lên những kẻ cạnh tranh làm anh ta mất nghề. Cứ để một người nào đó bán hàng hoá của mình quá đắt, hoặc không muốn trả công cho công nhân của mình như những kẻ khác, anh ta sẽ mất khách trong trường hợp thứ nhất và không có người làm trong trường hợp thứ hai. Như vậy, những động

5

cơ vị kỷ của con người điều khiển trò chơi, và sự tác động qua lại giữa họ sẽ tạo ra những kết quả bất ngờ nhất, đó là sự hài hoà của xã hội. Ông đã nhận thức rõ vai trò điều tiết của thị trường qua sự tác động của cung – cầu và giá cả, ông kết luận: lợi ích cá nhân sẽ khôi phục sự cân bằng. Lý thuyết bàn tay vô hình dựa trên sự thúc đẩy của lợi ích cá nhân và sự điều tiết của thị trường tự do cạnh tranh. Ông đã giải thích việc để giá cả thị trường được cân bằng, phải không xa rời chi phí sản xuất thực tế hàng hoá. Ông đã giải thích việc xã hội làm như thế nào để hướng những người sản xuất hàng hoá phải cung cấp những hàng hoá mà xã hội cần, sự tương đồng cơ bản trong thu nhập ở dân chúng ở mỗi trình độ sản xuất của một quốc gia. Nghĩa là ông đã tìm ra trong cơ chế thị trường một hệ thống tự điều tiết việc cung ứng cho xã hội một cách có trật tự. Theo ông quan hệ giữa người và người là quan hệ phụ thuộc về kinh tế chỉ có chủ nghĩa tư bản mới là xã hội bình thường, nó được xây dựng trên cơ sở các quy luật tự nhiên. Ông cho rằng các chế độ xã hội trước đó là không bình thường. Từ đó ông cho rằng nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, nhà nước chỉ nên có chức năng bảo vệ quyền sở hữu tư bản, đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài, chống tội phạm trong nước. Nhà nước chỉ nên can thiệp vào các chức năng kinh tế khi nó vượt ra ngoài khả năng của các chủ doanh nghiệp. Ông cho rằng chính sách kinh tế tốt nhất của nhà nước là tự do kinh tế. Nói tóm lại, theo những gì em hiểu về thuyết bàn tay vô hình, là nhà nước không cần thiết can thiệp vào nền kinh tế. Thị trường sẽ tự động giải quyết tất cả. Nhưng tại sao thị trường lại có thể giải quyết được? Đó là vì mỗi một con người luôn luôn chạy theo lợi ích cá nhân của mình, nhưng họ không biết rằng mình đã vô tình bảo vệ lợi ích xã hội. Và chính cái mong muốn theo đuổi lợi ích cho mình nó như một động lực, như một bàn tay vô hình nào đó thúc đẩy cho sự phát triển của xã hội. Đó chính là 6

quan điểm của A.Smith về lý thuyết bàn tay vô hình. NHẬN XÉT: • Lý thuyết bàn tay vô hình là lý thuyết kinh tế vĩ mô trong điều kiện tự do cạnh tranh. • Trong một nền kinh tế cạnh tranh không hoàn toàn thì lý thuyết này vẫn là cơ sở của lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại. • Quan điểm kinh tế của ông phản ánh phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của chủ nghĩa tư bản vào thời kỳ đó. Vào thời kỳ đó, trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp thì tự do cạnh tranh là đặc trưng chủ yếu và phổ biến vì lúc đó quy mô các doanh nghiệp còn nhỏ, số lượng các doanh nghiệp còn ít. Sự lựa chọn của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp là có hiệu quả nhất và thích hợp nhất. • Phương pháp lý luận của ông có tính rõ rệt khoa học và tầm thường: ➢ Khoa học: quan sát các mối liên hệ bên trong, các phạm trù kinh tế hoặc cơ cấu bị che lấp của hệ thống kinh tế tư sản. ➢ Tầm thường: lý luận của ông còn nhiều mâu thuẫn, ông đặt các mối quan hệ trên như mối liên hệ bề ngoài của hiện tượng cạnh tranh. Ý NGHĨA: • Tôn trọng quy luật kinh tế khách quan. • Tôn trọng tư tưởng tự do kinh tế (tự do kinh doanh, tự do sản xuất, tự do cạnh tranh, thọtrường tự do...) • Nhà nước đôi khi cũng có chức năng kinh tế.

7

III. LÝ THUYẾT CÂN BẰNG THỊ TRƯỜNG CỦA L.WALRAS: Theo Leon Walras, trong cơ cấu nền kinh tế thị trường, có ba loại thị trường: thị trường sản phẩm, thị trường tư bản và thị trường lao động. Thị trường sản phẩm là nơi mua bán hàng hóa, tương quan trao đổi giữa các loại hàng hóa là giá cả của chúng. Thị trường tư bản là nơi hỏi và vay tư bản, lãi suất tư bản cho vay là giá tư bản. Thị trường lao động là nơi thuê mướn công nhân, tiền lương hay tiền công là giá lao động. Ba thị trường này độc lập với nhau, song nhờ hoạt động của doanh nhân nên có quan hệ với nhau. Doanh nhân là người sản xuất hàng hóa để bán. Muốn sản xuất, doanh nhân phải vay vốn trên thị trường tư bản và thuê công nhân trên thị trường lao động, trên thị trường này doanh nhân là sức cầu. Sản xuất được hang hóa doanh nhân mang bán nó trên thị trường sản phẩm, ở đây doanh nhân là sức cung. Để vay tư bản, doanh nhân phải trả lãi suất, để thuê công nhân doanh nhân phải trả tiền lương, lãi suất và tiền lương gọi là chi phí sản xuất. Nếu giá bán hàng hóa trên thị trường sản phẩm của doanh nhân cao hơn chi phí sản xuất thì anh ta sẽ có lãi, doanh nhân có xu hướng mở rộng sản xuất. Để mở rộng sản xuất, anh ta phải vay thêm tư bản, thuê thêm công nhân. Như vậy, sức cầu của doanh nhân tăng lên, làm cho giá cả tư bản và lao động tăng lên, tức là chi phí sản xuất tăng lên. Ngược lại, khi có thêm hàng hóa, doanh nhân sẽ tăng thêm sản phẩm trên thị trường, do đó giá cả hàng hóa trên thị trường này sẽ giảm xuống, dẫn đến thu nhập của doanh nhân bị giảm xuống. Khi thu nhập của những hàng hóa sản xuất tăng thêm giảm xuống ngang với chi phí sản xuất để sản xuất ra chúng, thì doanh nhân sẽ không có lời trong việc sản xuất thêm, nên không thuê thêm công nhân và không vay thêm tư bản nữa. Nhờ vậy, giá cả hàng hóa tư bản và lao động, tức là lãi suất và tiền lương ổn Từ đó làm cho giá cả tư bản và lao động ổn định dẫn đến giá hàng hóa ổn định (tiền công, lãi suất, giá hàng tiêu dùng đều ổn định) Khi đó ba thị trường đều đạt được trạng thái cân bằng, nền kinh tế ở trạng thái cân bằng tổng quát (Sự cân bằng tổng quát giữa các thị trường) – Điều này được thực hiện thông qua dao động tự phát của cung cầu và giá cả trên thị trường trong điều kiện tự do cạnh tranh.Điều kiện để có cân bằng tổng

8

quát là: có sự cân bằng giữa thu nhập bán hàng hóa sản xuất thêm và chi phí sản xuất ra chúng (Sự cân bằng giữa giá hàng hóa và chi phí sản xuất). Điểm kế thừa: • Nội dung lý thuyết thể hiện sự tập trung quan điểm về cơ chế thị trường tự điều tiết trong nền kinh tế hàng hóa TBCN. • Hoạt động của các doanh nhân không phải do tự phát mà bị chi phối bởi các quy luật kinh tế khách quan, theo biến động của quan hệ cung cầu và giá cả hàng hóa. • Theo ông, cơ chế tự điều tiết của “Bàn tay vô hình” sẽ làm cho tái sản xuất diễn ra bảo đảm đc tỉ lệ cân đối và duy trì đc sự phát triển bình thường. Thuyết “cân bằng thị trường” của L.Walras phản ánh sự phát triển tư tưởng “bàn tay vô hình” của A.Smith về tư tưởng tự do kinh tế, nhưng ở đây ông cũng đề cập đến việc nhà nước thực hiện chức năng quản lý để can thiệp vào kinh tế nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm bảo đảm ổn định giá, hạn chế đầu cơ, đưa ra giá hàng phù hợp với các yếu tố đầu vào cũng như tiền lương của người lao động. Dựa vào lý thuyết này không thể giải quyết các vấn đề khủng hoảng. Giải thích: Vì nó quá đề cao vai trò của cơ chế thị trường, đặt niềm tin tuyệt đối vào cơ chế đó, mà chưa biết đến mặt trái, tác động tiêu cực và những thất bại mà tự cơ chế đó sinh ra. Ông không thừa nhận khủng hoảng kinh tế, không thấy nguồn gốc và tác động của khủng hoảng kinh tế cũng như không thấy được vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Lịch sử đã chứng minh bản thân khủng hoảng kinh tế là một khuyết tật của cơ chế thị trường, tự bản thân cơ chế thị trường không thể giải quyết được đòi hỏi bàn tay nhà nước can thiệp nhằm khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trưởng. Hơn nữa, việc mở rộng sản xuất dẫn đến giảm giá thành sản phẩm và tăng lãi suất tiển lương cho công nhân thường không tương xứng với nhau dẫn đến “khủng hoảng thừa”. Hàng hóa sản xuất ra quá nhiều, người công nhân tuy có nhu cầu về hàng hóa nhưng tiền lương ít ỏi không đủ chi trả nên không thể mua được. 9

IV. VẬN DỤNG LÝ THUYẾT VÀO NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY: Trước hết, muốn biết được Đảng ta đã vận dụng những hạt nhân hợp lý trong “lý thuyết bàn tay vô hình” vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta như thế nào, trước tiên ta cần nắm được thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã 8 hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một hệ thống kinh tế được Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và chủ trương triển khai tại Việt Nam từ thập niên 1990. Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyên nhân của tình trạng này là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Thêm vào đó, công tác lý luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này còn chưa theo kịp thực tiễn. Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có đầy đủ. Mãi tới hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và, mãi tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW. Không nên lầm tưởng kinh tế thị trường chỉ gắn liền với chủ nghĩa tư bản, còn chủ nghĩa xã hội thì không. Quan niệm này xuất phát từ mô hình kinh tế bao cấp của Liên Xô và Đông Âu trước kia, song chính Liên Xô trong giai đoạn lãnh đạo của Lenin cũng có nền kinh tế thị trường. Thực ra, theo lý luận của Lenin thì chủ nghĩa xã hội là bước chuyển giữa chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Trong đó mô hình kinh tế là hỗn hợp, đan xen giữa kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể với kinh tế tư bản tư nhân. Theo đó, Lenin đã đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP), theo đó nhà nước cho phép một số thị trường được tồn tại, các ngành công nghiệp nhà nước đó sẽ hoàn toàn tự do đưa ra các quyết định kinh tế của mình. Sau khi Lenin mất, Stalin đã xóa bỏ NEP và xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch, khiến nhiều người lầm tưởng chủ nghĩa xã hội chỉ gắn liền với 10

kinh tế bao cấp. “Trước đổi mới, kinh tế Việt Nam dựa trên 2 hình thức tổ chức chủ yếu là xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã. Nhà nước điều hành nền kinh tế thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung và chế độ bao cấp hiện vật. Với cơ chế này, người ta thường chỉ nghĩ đến và nhấn mạnh đến vai trò của “bàn tay hữu hình” - bàn tay quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế. Hài hòa cả hai bàn tay Các xí nghiệp quốc doanh, thậm chí một số lĩnh vực của các hợp tác xã (như cung ứng vật tư, phân phối sản phẩm trong nội bộ, tiêu thụ sản phẩm,…) nhưng cũng chỉ như phân xưởng, đội sản xuất, cửa hàng, mà giám đốc gần như không có quyền tự chủ như Quản đốc, Đội trưởng, Cửa hàng trưởng hiện nay. Sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, tiêu thụ ở đâu, giá cả thế nào, lao động tiền lương ra sao, cùng với tem phiếu định lượng, lấy vốn ở đâu, xử lý lãi do nhà nước thu, lỗ đều do cấp trên (Nhà nước) định. Do nhà nước “ôm” nhưng “ôm” không xuể, còn các chủ thể sản xuất kinh doanh không những không phát huy được tính chủ động sáng tạo, trái lại còn trông chờ, ỷ lại vào nhà nước. Kết quả dẫn đến tăng trưởng kinh tế chậm, các quan hệ chủ yếu của kinh tế vĩ mô bị mất cân đối. Khi nền kinh tế chuyển đổi sang sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, thì cơ chế thị trường đã thổi một luồng sinh khí mới vào nền kinh tế, có tác động giải phóng sức sản xuất, đổi mới phân phối, đổi mới quản trị doanh nghiệp và đổi mới tư duy quản lý kinh tế và cũng xuất hiện “bàn tay vô hình” tham gia vào việc điều tiết nền kinh tế. Nhưng trong kinh tế thị trường cũng xuất hiện nhiều rủi ro do những khuyết tật bản thân của nó, do rủi ro tác động từ bên ngoài trong điều kiện mở cửa hội nhập, toàn cầu hóa. Khuyết tật của cơ chế thị trường đã tạo ra hai cuộc đại khủng hoảng trên thế giới, cùng những cuộc khủng hoảng chu kỳ cứ khoảng 5 năm một lần. Trong và sau các cuộc đại khủng hoảng này, nhà nước đã phải đưa ra những giải pháp giải cứu, kích thích, với số tiền khổng lồ, Ngân hàng Trung ương nhiều nước đã 10 phải đưa ra lãi suất với mức cực thấp trong thời gian khá dài – sự can thiệp này nếu đem so sánh thì còn lớn hơn nhiều so với các nước có nền kinh tế chuyển đổi hoặc các nước có nền kinh tế thị trường ra đời và phát triển chậm hơn. Nếu không có sự can thiệp kịp thời, khá đồng bộ với liều lượng lớn lao, 11

thì các nước dù có lớn cũng sẽ bị rơi vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng, hoặc là nhiều công ty “siêu khủng” bị sụp đổ, hoặc nhiều nước có thể còn rất lâu mới thoát khỏi khủng hoảng. Ở các nền kinh tế này, Chính phủ đang phải xem xét lại để thay đổi cơ chế tài chính sau khủng hoảng, chắc chắn sẽ phải tăng cường vai trò của nhà nước, của “bàn tay hữu hình” để hạn chế khuyết tật của cơ chế thị trường. Hiện nay, trong tư duy của một số nhà quản lý hoặc chuyên gia đã xuất hiện hai trạng thái, hai thái cực: một thái cực cho rằng phải tiếp tục duy trì hoặc muốn trở lại sử dụng “bàn tay hữu hình” một cách thái quá gần như khi còn cơ chế cũ; một thái cực khác là bỏ “bàn tay hữu hình”, cứ để cho “bàn tay vô hình” của thị trường điều tiết. Cả hai thái cực này đều không đúng và đều không có khả năng thực hiện được. Nếu chỉ sử dụng bàn tay hữu hình như nhà nước đã từng “ôm” nhưng “ôm” không xuể, không đủ nguồn lực để có thể “giải cứu” tất cả, không đủ sức chống đỡ trên tất cả các ngành, lĩnh vực, cơ chế xin – cho lại tiếp tục hoành hoành, làm méo mó thị trường… Dù có tung ra hết biện pháp hành chính này đến biện pháp hành chính khác, thì “vá” được chỗ này, sẽ “bục” ra ở chỗ khác… Nhưng nếu chỉ trông chờ vào “bàn tay vô hình”, thì sẽ có không ít ngân hàng thương mại sẽ gặp nhiều khó khăn, khi cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tràn đến và tác động xấu làm rung động đến cả hệ thống; hàng loạt doanh nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề sẽ chết và có thể lặp lại tình trạng “chết không có chỗ chôn” như cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Số người mất và thiếu việc làm sẽ không thể dùng đơn vị tính bằng nghìn, bằng trăm nghìn người mà phải tính bằng đơn vị tính là triệu người, chục triệu người. Kinh tế sẽ không chỉ suy giảm tốc độ tăng trưởng, mà còn bị suy thoái (tăng trưởng âm); mô hình tăng trưởng kinh tế không phải là chữ V (xuống đáy một lần rồi lên ngay), mà là chữ W 11 (xuống đáy 2 lần- còn gọi là khủng hoảng “kép”), hay là chữ U (xuống đáy khá lâu rồi mới phục hồi), thậm chí là chữ L (xuống đáy rồi nằm đó rất lâu, chưa biết đến bao gi...


Similar Free PDFs