HIU- t- LÊ UYỂN NHI TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA TRIẾT HỌC PDF

Title HIU- t- LÊ UYỂN NHI TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA TRIẾT HỌC
Author Giang Nguyen
Course triết học mác lê-nin
Institution Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 28
File Size 396.3 KB
File Type PDF
Total Downloads 333
Total Views 826

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ-------  -------TIỂU LUẬNTRIẾT HỌC MÁC – LÊNINĐề tài : Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người. Liên hệ việc xây dựng con người mới của Đảng.Sinh viên Nhóm 12A STT 10. Lê Uyển Nhi-MSSV: Lớp DH GVHD: TSễn Thị Thúy CườngTP HCM, 11-MỤC LỤC ...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -------  -------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài: Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người. Liên hệ việc xây dựng con người mới của Đảng.

Sinh viên Nhóm 12A 1. STT 10. Lê Uyển Nhi-MSSV: Lớp DH 2. GVHD: TP HCM, 11-2021

TS.Nguyễn Thị Thúy Cường

MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU...................................................................................................…….1 B. NỘI DUNG…………………………………………………………………….3 I. LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊ NIN VỀ CÒN NGƯỜI........................3 1.1. Khái niện về con người...........................................................................................3 1.2. Bản chất về con người…………………………………………………………….5 1.3 Sự phát triển xã hội loài người trong nền kinh tế tri thức........................................6 1.4 Quan hệ cá nhân và xã hội……………………………………………………...…8 1.5 Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong xã hội……………….………10 II. NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM………………………………………………………………………….13 2.1 Vai trò của con người đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam...........................13 2.2. Thực trạng của vấn đề đào tạo, sử dụng và phát triển con người ở Việt Nam…..15 2.2.1. Ưu điểm………………………………………………………………………..16 2.2.2. Hạn chế………………………………………………………………………...17 2.2.3. Nguyên nhân………………………………………………………………......17 a. Về mặt ưu điểm……………………………………………………………..17 b. Về mặt nhược điểm…………………………………………………………18 III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TRONG THỜI ĐẠI MỚI Ở VIỆT NAM…………………………………………………………………………………19 3.1. Đào tạo trước đòi hỏi của kinh tế tri thức............................................................19

3.2. Cải cách giáo dục để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...........20 C. KẾT LUẬN………………………………………………………………………24 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………...25

A. MỞ ĐẦU Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã từng tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất của con người. Trước Các Mác, vấn đề bản chất con người chưa được giải đáp một cách khoa học. Khi hình thành quan niệm duy vật về lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định vai trò cải tạo thế giới, làm nên lịch sử của con người. Bằng sự phát triển sự phát triển toàn diện thì con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất càng phát triển thì khả năng chiếm lĩnh và sử dụng các lực lượng tự nhiên ngày càng cao hơn, con người tạo ra ngày càng nhiều hơn cơ sở vật chất cho bản thân mình, đồng thời từ đó thúc đẩy con người tự hoàn thiện chính bản thân họ. Đặc biệt khi xã hội loài người phát triển đến trình độ nền kinh tế tri thức thì vai trò của con người đặt biệt quan trọng, vì con người tạo ra tri thức mới, chứa dựng những tri thức mới. Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất cả nhất của toàn nhân loại. Trong bối cảnh đó sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự do tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam càng dễ đi đến phủ nhận vai trò và khả năng của chủ nghĩa Mác Lênin.Trong thực tế, không ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con người trong các tôn giáo và hệ tư tưởng truyền thống, con người lại “sáng tạo” ra những tư tưởng, tôn giáo mới cho “phù hợp” hơn với con người Việt Nam hiện nay. Song nhìn nhận lại một cách thật sự khách quan và khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã hội ta, có lẽ không ai phủ nhận được vai trò ưu trội và triển vọng của nó trong sự phát triển con người. Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương khoá VII, Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là 1

“động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Đã có rất nhiều ngành, môn khoa học nghiên cứu về vấn đề con người đây được coi là vấn đề thiết thực nhất đòi hỏi sự phát triển toàn diện nhất trên nhiều lĩnh vực. Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, em đã chọn đề tài: “Quan điểm triết học Mác - Lênin về con người. Liên hệ việc xây dựng con người mới của Đảng”

2

B. NỘI DUNG I. LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊ NIN VỀ CÒN NGƯỜI 1.1. Khái niệm về con người * Con người là thực thể sinh học – xã hội: Theo C.Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa. về phương diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”1. Điều đó có nghĩa rằng con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu tranh sinh tồn” để ăn uổng, sinh đẻ con cái, tồn tại và phát triển. Nhưng không được tuyệt đối hóa điều đó. Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ phận của giới tự nhiên. “Giới tự nhiên...là thân thể vô cơ của con người,... đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên” 2, về phương diện thực thể sinh học, con người còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật”3. Nếu con vật phải sống dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì 1 C.Mác và Ph.Ẫngghen (1994), Toàn tập, Sđd. tr. í46. 2 C.Mác và Ph.Ấngghen (1994), Toàn tập, 20, Sđd. tr. 146. 3 C.Mác và Ph.Ảngghen (1994), Toàn tập, 20, Sđd. lr.673.

3

con người lại sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhờ có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh học có thể ữở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có lý tính, có “bản năng xã hội. Tính xã hội của con người chỉ có trong “xã hội loài người”, con người không thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật. Tư duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với nhau. Chính vì vậy, khác với con vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người. * Con nguời là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của Phoiơbắc đã xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động thực tiễn của họ, xem xét con người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu tượng, không có hoạt động thực tiễn. Phoiơbắc đã không nhìn thấy những quan hệ hiện thực, sống động giữa người với người trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong sản xuất. Do vậy, ông đã tuyệt đối hóa tình yêu giữa người với người. Mác đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức rằng, tiền đề của lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của các ông là những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm cho họ trở thành những con người như đang tồn tại. cần lưu ý rằng con người là sản phẩm cùa lịch sử và của bản thân con người, nhưng con người, khác với con vật, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con người còn là chủ thể của lịch sử. * Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng thời, lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội tối cao của con người. Con người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật “là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát 4

triển dần dần của chúng cho đến trạng thái hiện nay của chúng. Chính ở thời điểm đó con người bắt đàu làm ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản chât của con người, nhưng con người không thê sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, mà là phải dựa vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại trong những hoàn cảnh mới. Con người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên các tiền đề, điều kiện cũ của thế hệ trước để lại, mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt động mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào thì tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. Mặt khác, là một bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo các quy luật của tự nhiên, tuân theo các quá trình tự nhiên như cơ học, vật lý, hóa học, đặc biệt là các quá trình y, sinh học, tâm sinh lý khác nhau, về phương diện sinh thể hay sinh học, con người là một tiểu vũ trụ có cấu trúc phức tạp, là một hệ thống mở, biến đổi và phát triển không ngừng, thay đổi và thích nghi khá nhanh chóng so với các động vật khác trước những biến đổi của môi trường. Chính nhờ môi trường xã hội mà con người trở thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã hội. 1.2. Bản chất về con người Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”. Bản chất của con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, nhung không phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mả lâ sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau. Các quan hệ xã hội có nhiều loại: Quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên, bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế, V.V.. Tất cả các quan hệ đó đều 5

góp phần hình thành lên bản chất của con người. Các quan hệ xã hội khi đã hình thành thì có vai trò chỉ phối và quyết định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho con người không còn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội. Con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội” . Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối. 1.3 Sự phát triển xã hội loài người trong nền kinh tế tri thức - Trong thời gian 150 năm, từ năm 1750 đến 1900 (thời kỳ của cách mạng công nghiệp), chủ nghĩa tư bản và công nghệ đã chinh phục toàn thế giới và tạo ra một nền văn minh thế giới mới. Nhịp độ và phạm vi đó đã biến tư bản thành “chủ nghĩa tư bản”, và biến những tiến bộ về khoa học công nghệ thành cuộc “ Cách mạng công nghiệp”. Chủ nghĩa tư bản và Cách mạng công nghiệp – do nhịp độ và quy mô của chúng – đã tạo ra một nền văn minh thế giới mới. Sự chuyển đổi này đã được thúc đẩy bởi những thay đổi căn bản về ý nghĩa tri thức. ở cả phương Đông và phương Tây trước đây, tri thức được quan niệm là phục vụ cho chính nó. Nhưng sau một khoảng thời gian ngắn, tri thức đã được áp dụng vào tổ chức lao động, trở thành một nguồn lực có giá trị sử dụng và trở thành một loại hàng hóa công cộng. - Sự biến đổi ý nghĩa của tri thức trải qua 3 giai đoạn: + Trong giai đoạn đầu (khoảng 100 năm), tri thức được áp dụng cho các công cụ sản xuất, phương pháp sản xuất và sản phẩm. Điều này tạo ra cuộc Cách mạng công nghiệp đồng thời cũng tạo ra điều mà Marx gọi là các giai cấp mới, các cuộc đấu tranh giai cấp và gắn liền với chúng là Chủ nghĩa cộng sản. + Trong giai đoạn thứ hai, bắt đầu từ khoảng cuối thể kỷ 19 và kết thúc vào Chiến tranh thế giới thứ 2, tri thức được áp dụng cho tổ chức lao động. Giai đoạn này tạo ra cuộc Cách mạng năng suất trong 75 năm và chuyển những người vô sản trở thành tầng lớp trung lưu với thu nhập gần với tầng lớp thượng lưu. + Giai đoạn cuối cùng thì tri thức đang được áp dụng cho chính bản thân tri thức. 6

Đó là cuộc cách mạng quản lý. Tri thức trở thành một nhân tố sản xuất, làm giảm vai trò của cả vốn là lao động. Có thể là hấp tấp khi nói rằng chung ta hiện nay đang ở trong “xã hội tri thức”- hiện nay chúng ta mới chỉ có một nền kinh tế tri thức. Nhưng rõ ràng xã hội của chúng ta hiện nay đã là “xã hội hậu tư bản” - Các phát minh trong thời trước cách mạng công nghiệp (chẳng hạn như kính mắt) cũng đã được lan truyền rất nhanh nhưng chúng ta chỉ gắn với một ngành, nghề thủ công hoặc một ứng dụng cụ thể nào đó. Có thể lấy ví dụ về việc phát triển máy tính phải dựa vào rất nhiều phát minh khoa học trước đó. Đó là sự thay đổi căn bản ý nghĩa của tri thức vào những năm 1700 và một thời gian ngắn sau đó. Vào thời kỳ Plato (những năm 400 trước công nguyên) có 2 học thuyết ở phương Đông và 2 học thuyết ở phương Tây về ý nghĩa và chức năng của tri thức. Địch thủ của ông ta, nhà triết học Protagoras lại cho rằng mục đích của tri thức là làm cho người có tri thức có thể hiểu được những gì cần phải nói và làm thế nào để nói chúng. Theo Protagoras, tri thức có nghĩa là logich, ngữ pháp và hừng biện (tu từ). - Ở phương Đông cũng có hai học thuyết tương tự về tri thức. Đối với Khổng giáo, tri thức là biết được những gì cần nói và làm thế nào để nói chúng là con đường dẫn tới tiến bộ và thành công trên trần thế. Theo Đạo Lão và phái Thiền (Phật giáo) thì tri thức là vi tri thức, và là con đường đi đến sự thông thái và khôn ngoan. Khác với những người đương thời của mình của mình ở phương Đông, tức là những người theo Khổng giáo ở Trung Quốc, những người coi thường bất cứ những gì không thuộc nghiên cứu sách vở, cả Socrates lẫn Protagoras đều coi trọng kỹ thuật (techne) mặc dù cả hai ông này đều cho rằng kỹ thuật không phải là tri thức dù nó có đáng khâm phục đến đâu. Kỹ thuật gắn với một ứng dụng cụ thể và không có tính nguyên tắc để áp dụng cho tất cả các trường hợp. 7

-

Nền tảng tạo ra 3 giai đoạn của tri thức – Cách mạng công nghiệp, Cách mạng năng suất, và Cách mạng quản lý – là sự thay đổi về căn bản ý nghĩa của tri thức. Chúng ta đã chuyển từ chỗ tri thức là số ít lên tri thức là số nhiều.

* Tri thức theo kiểu truyền thống là một thức chung chung. Còn tri thức bây giờ là những kiến thức cần thiết cực kỳ chuyên sâu. Khác với cách hiểu về tri thức trong thời kỳ Plato như đã nói ở trên, tri thức bây giờ được hiểu là tri thức thông minh cho chính nó trong hoạt động. Cái mà bây giờ chúng ta hiểu về tri thức chính là thông tin thực tế đối với hoạt động, thông tin nhấn mạnh đến kết quả. Những kết quả này nằm ngoài một cá nhân- nằm trong một xã hội và một cộng đồng. - Để có thể thực hiện được công việc, tri thức phải có tính chuyên môn hóa cao. Đây chính là lý do giải thích tại sao trước đây người ta lại coi tri thức chuyên sâu có vị trí tầm thường như kỹ thuật và kỹ xảo. Nó không học được cũng không dạy được; nó cũng không có một nguyên tắc chung nào. Nhưng ngày nay, chúng ta không gọi những tri thức chuyên sâu này là “bí quyết”, chúng ta nói đó là “những môn học”. Đây chính là một sự thay đổi lớn hơn bất cứ sự thay đổi nào trong lịch sử tri thức. - Mỗi môn học sẽ chuyển một “bí quyết” thành một phương pháp luận, sẽ chuyển từng kinh nghiệm riêng lẻ thành một hệ thống và chuyển giai thoại thành thông tin. Mỗi môn học sẽ chuyển các kỹ năng thành các thứ có thể dậy và học được. Nhưng xã hội này phải được xây dựng trên những tri thức có tính chuyên sâu, và những con người có tri thức như là một chuyên gia. Nó cũng đặt ra những câu hỏi cơ bản – về giá trị, về nhân sinh quan, về niềm tin, về tất cả mọi thứ làm cho xã hội gắn kết với nhau và làm cho cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa. 1.4 . Mối quan hệ cá nhân và xã hội 8

- Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân người là một chỉnh thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác biệt với những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ…Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Những cá nhân này sống và hoạt động trong những nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện lịch sử quy định. Trong mối quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ với xã hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách sau: + Cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài “người”. Không có con người nói chung, loài người nói chung tồn tại cảm tính. + Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội, là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách. + Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Nhưng xã hội thay đổi theo tiến trình lịch sử cá nhân là một hiện tượng có tính lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch sử có một “kiểu xã hội của cá nhân” mang tính định hướng về thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động của con người trong thời kỳ lịch sử cụ thể đó. - Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với giống loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân khác thì nhân cách là khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố bên trong riêng biệt với toàn bộ hoạt động sống của nó, của cá nhân này với cá nhân khác. Mỗi cá nhân “dấn thân” vào cuộc sống, tiếp thu và chuyển những giá trị văn hoá của xã hội vào bên trong mình, thực hiện quá trình so sánh lọc bỏ, tự đánh giá, tự tạo nên thế giới riêng của mình. Đây là quá trình kép, xã hội hoá cá nhân và cá nhân hoá xã hội, cá nhân xã họi và cá nhân nhân cách là thống nhất. Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng ý thức về mình, làm chủ cuộc sống của

9

mình, tự lựa chọn chức năng, niềm vui và trách nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội. - Vấn đề cá nhân, nhân cách không giải quyết một cách khoa học nếu không có phương hướng triết học rõ ràng giải quyết mối quan hệ cá nhân và xã hội. Mối quan hệ này được giải quyết liên tiếp thông qua tập thể cơ sở. Cá nhân có nhân cách gia nhập vào tập thể như là bộ phận của cái toàn thể, thể hiện bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể, nhưng không “hoà tan” vào tập thể. Đây là mối quan hệ biện chứng bao hàm mẫu thuẫn cá nhân và tập thể. Tuỳ theo tính chất và khả năng giải quyết những mâu thuẫn đó mà mối quan hệ này có thể duy trì phát triển hoặc tan rã. - Mối quan hệ cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động nhau, trong đó xã hội giữ vai trò quyết định. Xã hội là điều kiện, là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện.Với tư cách là chủ thể của lịch sử, cá nhân hành động không phải riêng rẽ mà với tư cách là một bộ phận của tập thể xã hội (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân dân). Cá nhân chỉ được hình thành phát triển trong xã hội, trong tập thể. Sự tác động cá nhân và xã hội mang hình thức đặc thù tuỳ thuộc vào các chế độ xã hội và trình độ văn minh khác nhau. - Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử đấu tranh để giành tự do ngày càng cao. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, tự do của người này được thực hiện bằng cách tước đoạt tự do của người khác. Trước đây C.Mác và Ph. Ănghen đã chỉ ra rằng, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc, và “sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế”. Nó tạo ra một số nước tư bản phát triển cao, giàu có, thì đồng thời cũng làm cho châu Phi đói, 10

châu Á nghèo, châu Mỹ Latinh nợ nần chồng chất. Đó là đặc trưng của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội. 1.5. Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ xã hội - Về căn bản, tất cả các nhà triết học trong lịch sử triết học trước Mác đều không nhận thức đúng vai trò của quần chúng nhân dân trong trong tiến trình phát triển của lịch sử. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ quan điểm duy tâm hoặc siêu hình về xã hội. - Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi vì, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng nhân dân. Hơn nữa...


Similar Free PDFs