Nguyễn Minh Trí - 407 - TIỂU LUẬN TRIẾT VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI PDF

Title Nguyễn Minh Trí - 407 - TIỂU LUẬN TRIẾT VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
Author Nguyễn Trí
Course Triết học
Institution Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 11
File Size 303.6 KB
File Type PDF
Total Downloads 305
Total Views 646

Summary

ĐẠI HỌC UEHTRƯỜNG KINH DOANHKHOA DU LỊCHTIỂU LUẬNBỘ MÔN TRIẾT HỌC MARX - LENINNGUYỄN MINH TRÍTP Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 12 năm 2021ĐẠI HỌC UEHTRƯỜNG KINH DOANHKHOA DU LỊCHTIỂU LUẬNMôn học: ... TRIẾT HỌC MARX - LENIN ...Giảng viên: .....ạm Thị Kiên................. Mã lớp học phần: ....... 21C1PHI...


Description

ĐẠI HỌC UEH TRƯỜNG KINH DOANH KHOA DU LỊCH

TIỂU LUẬN BỘ MÔN TRIẾT HỌC MARX - LENIN NGUYỄN MINH TRÍ

TP Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 12 năm 2021

ĐẠI HỌC UEH TRƯỜNG KINH DOANH KHOA DU LỊCH

TIỂU LUẬN Môn học: … TRIẾT HỌC MARX - LENIN …

Giảng viên: ……Phạm Thị Kiên…………….. Mã lớp học phần: .…… 21C1PHI51002329 … Sinh viên: ……Nguyễn Minh Trí……………. Khóa – Lớp: ……K47 – HM004……………. MSSV: ……31211028407……………………

TP Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 12 năm 2021

Lời mở đầu Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề lý luận, thực tiễn về con người vẫn luôn là đề tài quan trọng trong hướng phát triển của các nước đang phát triển. Về vấn đề con người và bản chất của nó, từ ngàn đời xưa, các nhà triết học đã thảo luận về nó, đưa ra rất nhiều quan điểm nhưng chỉ có triết học Mác mới thật sự nói rõ được vấn đề về con người và bản chất con người. Cùng với đó, triết học Mác đã được Hồ Chủ tịch vận dụng để hoạch định những chiến lược phát triển con người, phát triển đất nước. Để hiểu rõ hơn về điều này, chúng ta cùng đi thảo luận về đề tài: ”Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.”

Đề tài: ” Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.” Bài làm Chương 1: Con người và bản chất con người Về phần “con người”, con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội ❖ Thứ nhất, con người là một thực thể sinh học, là một sản phẩm của quá trình tiến hoá tự nhiên. Xét về phương diện này, theo học thuyết Đacuyn về sự tiến hoá của các loài, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên (1). "Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là “ thân thể vô cơ của con người”" (2). Chính vì thế, sự biến đổi trong giới tự nhiên, tác động của giới tự nhiên lên con người luôn luôn tạo ra tác động ngược lại từ phía con người lên môi trường đó. ❖ Thứ hai, con người là một thực thể xã hội. Dù cùng tiến hoá từ tự nhiên, nhưng khác với các giống loài khác, con người có đặc tính xã hội. Ta xét đến 2 khía cạnh sau: ➢ Một là, nguồn gốc của con người. Con người không chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hoá tự nhiên mà con người còn được hình thành từ xã hội có các hoạt động xã hội. Trong hoạt động xã hội, yếu tố lao động là thứ giúp con người phát triển và vượt mặt các loài khác trong quá trình tiến hoá tự nhiên. Từ đó hình thành nên xã hội loài người. Lao động đã giúp con người hình thành được các tập tính, các hoạt động sản xuất tạo ra lợi ích chung cho cá nhân và cộng đồng. Khác với những loài khác trong tự nhiên, loài người chỉ có thể tồn tại và phát triện được trong xã hội loài người.

1

➢ Hai là, sự tồn tại và phát triển của loài người. Sự tồn tại của loài người luôn bị chi phối, tác động giữa các nhân tố và quy luật xã hội. Tồn tại trong xã hội loài người, con người luôn tiếp nhận một cách tương ứng với những tác động của sự biến đổi của xã hội. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân luôn là những bước tiến của sự phát triển xã hội. Về “bản chất con người”, ta có thể hiểu nó là “tổng hoà các mối quan hệ xã hội”(3). Luận điểm nổi tiếng về con người của C.Mác viết trong Luận cương về Phoi-ơ-bắc (1845) có nói: "Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"(4). Bản chất của con người là luôn được hình thành và thể hiện  những con người hiện thực và cụ thể trong những điều kiện lịch sử. Bản chất con người được hình thành dần qua năm tháng, qua các dấu mốc của lịch sử loài người. Cùng với sự trải qua của lịch sử, các quan hệ xã hội cũng góp phần tạo nên bản chất con người. Sự kết hợp đấy không phải là sự kết hợp đơn giản cũng chẳng phải tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng. Mỗi quan hệ xã hội có những vị trí, vai trò khác nhau, tác động qua lại, không tách rời nhau mà bổ trợ cho nhau. Các quan hệ xã hội có thể kể đến: quan hệ quá khứ/hiện tại, quan hệ vật chất/tinh thần, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế, v.v.. Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành và định hình bản chất con người. Các quan hệ xã hội thay đổi dù ít hay nhiều thì sớm hay muộn, bản chất con người cũng sẽ bị tác động và thay đổi theo. Như vậy, có thể coi chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con người với tư cách "người", phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên Tiếp đến, “theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích vả lý giái sự hình thành 2

và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử”(5). Xét từ phương diện bản tính tự nhiên, người da màu vẫn chỉ là người da màu, nhưng chỉ trong quan hệ kinh tế - chính trị của xã hội chiếm hữu nô lệ anh ta bị biến thành "người nô lệ". Nhưng sẽ khác nếu trong quan hệ kinh tế - chính trị xã hội chủ nghĩa, anh ta là "người tự do”, làm chủ và sáng tạo lịch sử. Như thế, không có một bản chất nô lệ duy nhất và cố định của người da màu hay da trắng vì nó là sản phẩm của những quan hệ kinh tế, chính trị - xã hội trong những điều kiện lịch sử xác định và khi những quan hệ này thay đổi thì cũng tạo ra sự thay đổi bản chất của con người. Vì vậy, giải phóng bản chất con người cần phải hướng vào sự giải phóng những quan hệ kinh tế - chính trị, văn hóa, xã hội của nó, từ đó con người mới có thể thật sự tr về bản thân con người: tự do phát triển của mỗi con người. Như vậy, theo như sách “Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn học Triết học Mác – Lênin” trang 205 có viết: “Không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện lịch sử nhất định. Với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó”. Con người tồn tại và phát triển luôn trong một môi trường tự nhiên và cùng lúc tồn tại trong một trường xã hội. Ở môi trường tự nhiên, con người chịu những ảnh hưng từ môi trường đó. Trong môi trường xã hội, con người tr thành một thực thể xã hội và s hữu những bản chất xã hội. Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người cùng tồn tại với nhau, tác động nhau, biến đổi lẫn nhau.

3

Chương 2: Ý nghĩa lý luận và thực tiễn *Về ý nghĩa lý luận: Trong cuốn sách “Nhân cách con người Việt Nam và sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay” có nêu rằng quan điểm của Mác - Lênin về con người và bản chất con người là cơ s phương pháp luận cho mọi hoạt động của con người, biểu hiện: Một là, bản chất con người chịu sự chi phối của yếu tố kinh tế - xã hội, trong đó yếu tố kinh tế là chủ đạo. Các-Mác từng nói, lịch sử không phải gì khác ngoài việc con người theo đuổi mục đích của mình.. Qua từng giai đoạn lịch sử, mục đích của con người cũng thay đổi. Sự phát triển nhân cách nằm trong những quy định khách quan của điều kiện kinh tế - chính trị, thứ đã tạo xu hướng và mục đích hoạt động chung của con người. Thế nhưng, dù là thế thì thứ trực tiếp quy định bản chất con người không phải là tất cả điều kiện kinh tế mà là quan hệ lợi ích(6). Lợi ích bao gồm lợi ích cá nhân, thứ được hiểu như động lực trực tiếp tác động đến hành động của con người và lợi ích cộng đồng, thứ được xem như động lực gián tiếp góp phần định hướng để con người thực hiện hoá lợi ích cá nhân. Trong bất kì mốc thời gian nào của lịch sử cũng đều có những hành động trước hết vì lợi ích của cá nhân và đó cũng là yếu tố, là cơ s để thực hiện lợi ích cộng đồng. C.Mác đã viết :” Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người”(7). Hai là, bản chất con người là tổng hoà các yếu tố giá trị mới. Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, nó luôn chịu sự tác động từ nhiều yếu tố khác nhau, nổi trội nhất là 2 mảng yếu tố: tri thức và đạo đức. Thế thì, trong quá trình tổng hoà để tạo ra các giá trị mới, chúng ta không thể chỉ gói gọn sự tiếp thu trong một yếu tố nhất định, là tri thức hoặc là đạo đức, mà là phải tổng hoà cả hai giá trị cùng với nhau. Như Bác Hồ đã từng nói:” Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”(8). 4

Ba là, nhân tố văn hoá của xã hội quy định sự hình thành và phát triển của bản chất con người. “Văn hoá xã hội là tổng hoà của văn hoá cá nhân” (9). Như đã nói, tổng hoà là sự “kết tinh những tinh hoa” (10) của nhiều nền văn hoá lại với nhau. Mỗi một cá thể được sinh ra và lớn lên trong xã hội loài người đều được kế thừa và tiếp nhận các giá trị và các chuẩn mực của văn hoá xã hội. Ta không thể xét nhân cách của một đứa trẻ vừa mới chào đời vì điều đó được định hình và phát triển dần qua thời gian, qua giáo dục của bản thân và xã hội trong môi trường văn hoá xã hội. Trong thực tế, sự hình thành và phát triển nhân cách không đơn giản như thế, nó cần thêm điều kiện đủ để thật sự hình thành được toàn vẹn nhân cách của con người. Điều kiện đấy bao hàm sự ảnh hưng của điều kiện kinh tế, môi trường giáo dục và xã hội. Giữa nhân cách và các điều kiện đủ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mối quan hệ biện chứng. “Khi nhân cách hình thành, con người tr thành chủ thể xã hội với bản chất là hoạt động sáng tạo, cải tạo thế giới hiện thực. Con người lại không ngừng tạo ra những điều kiện môi trường xã hội mới, tốt đẹp làm cơ s cho quá trình hình thành và phát triển nhân cách”(11) *Về ý nghĩa thực tiễn: Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá  nước ta hiện nay. Đảng đã và đang xây dựng, phát triển đất nước toàn diện về nhiều mặt, đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực vì nó tác động rất nhiều vào lĩnh vực kinh tế. Phát triển nguồn nhân lực trong nền kinh tế đổi mới cần chú trọng tới những hướng đi cụ thể. Có thể kể đến nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục đạo đức, chú trọng sức khoẻ, giáo dục thẩm mĩ và chất lượng cuộc sống. Bên cạnh đó cần có cơ chế, chính sách hợp lý để thu hút, sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả. Tiếp đến cần tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với việc phát triển nguồn nhân lực và giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với thực tiễn nền kinh tế-xã hội của đất nước tránh trường hợp “chảy máu chất xám, lãng phí nhân tài”. 5

Dưới cương vị của một sinh viên UEH, để góp công giúp sức giúp nước nhà phát triển nguồn nhân lực, em cần phải học tập, tiếp thu và vận dụng hiệu quả, hợp lý các kiến thức giảng viên đã truyền đạt. Từ đó thực hiện và tham gia những hoạt động, tổ chức phát triển về các tiềm năng cũng như khả năng sáng tạo của giới trẻ để tìm kiếm “những viên ngọc sáng” cho nguồn nhân lực nước nhà. Bên cạnh đó, em cũng cần phải trang bị thêm những kiến thức chuyên môn của lĩnh vực mình theo đuối, những kiến thức thực tế trong đời sống để góp phần định hình và phát triển nhân cách bản thân ngày một tốt hơn.

6

Kết luận Theo quan điểm của Mác-Lênin, bản chất con người chúng ta không phải là của một cá nhân, mà trong tính hiện thực lịch sử của nó, bản chất con người được cấu thành từ những mối quan hệ trong xã hội. Các môi quan hệ đấy tổng hoà lại với nhau, tạo ra những giá trị về bản chất con người. Trong lý luận, chủ nghĩa MácLênin đã chỉ ra rằng bản chất con người là nền tảng của mọi hoạt động của con người. Và trong thực tiễn, Nhà nước ta đã kế thừa tư tưng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới đất nước, phát triển nguồn nhấn lực, công nghệ hoá hiện đại hoá đất nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Tài liệu tham khảo (1),(2)Bộ môn Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn học Triết học Mác - Lênin, lưu hành nội bộ 2019, trang 203-204 (4): C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (5): Bộ môn Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn học Triết học Mác - Lênin, lưu hành nội bộ 2019, trang 205 (6): Ts. Bùi Xuân Dũng (chủ biên), Nhân cách con người Việt Nam và sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, 2021, trang 56 (7): Ts. Bùi Xuân Dũng (chủ biên), Nhân cách con người Việt Nam và sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, 2021, trang 57 (8): Ts. Bùi Xuân Dũng (chủ biên), Nhân cách con người Việt Nam và sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, 2021, trang 60 (9),(10): Ts. Bùi Xuân Dũng (chủ biên), Nhân cách con người Việt Nam và sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, 2021, trang 62 (11): Ts. Bùi Xuân Dũng (chủ biên), Nhân cách con người Việt Nam và sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, 2021, trang 64...


Similar Free PDFs