[Nhóm 7A] TIỂU LUẬN QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ PDF

Title [Nhóm 7A] TIỂU LUẬN QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
Course Business
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 29
File Size 504.2 KB
File Type PDF
Total Downloads 87
Total Views 377

Summary

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ II TP HỒ CHÍ MINHCHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠITiểu luận: QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾĐề tàiTÍNH HAI MẶTCỦA TOÀN CẦU HÓA KINH TẾNhóm 7AHồ Chí Minh, 14 tháng 08 năm 2018LỜI MỞ ĐẦUCùng với sự tăng trưởng kinh tế thế giới, quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra ngày càng mạnh...


Description

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ II TP HỒ CHÍ MINH CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

Tiểu luận: QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ

Đề tài

TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ Nhóm 7A

Hồ Chí Minh, 14 tháng 08 năm 2018

2

LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự tăng trưởng kinh tế thế giới, quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và rộng khắp. Đây là một quá trình tất yếu đối với mỗi quốc gia nói riêng và toàn thế giới nói chung. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa đã đem lại rất nhiều tác động lên mọi khía cạnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... như gia tăng thương mại quốc tế, trao đổi văn hóa quốc tế, gia tăng di cư, nhập cư,… Tuy nhiên, những tác động của toàn cầu hóa đều có hai mặt tích cực và tiêu cực riêng. Bài tiểu luận này sẽ tập trung nghiên cứu và phân tích về tính hai mặt kể trên của toàn cầu hóa trong khía cạnh kinh tế thế giới hiện nay, bên cạnh đó cũng sẽ đồng thời đề cập đến thực trạng của Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế và những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế đối với Việt Nam dưới góc nhìn bao quát và khách quan.

3

MỤC LỤC I.

KHÁI NIỆM TOÀN C ẦU HÓA

4

II.

TÍNH TÍCH CỰC CỦA TOÀN CẦU HÓA

7

III.

TÍNH TIÊU CỰC CỦA TOÀN CẦU HÓA

17

IV.

VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA

22

V.

KẾT LUẬN

27

4

I. KHÁI NIỆM TOÀN CẦU HÓA Trong hơn một thập kỷ vừa qua, xu thế toàn cầu hóa phát triển ngày một mạnh mẽ kéo theo những khuynh hướng tiên tiến vượt trội khiến cho nền kinh tế đặt ra hàng loạt câu hỏi về định nghĩa của “sự toàn cầu hóa là gì?” Cụm từ “toàn cầu hóa” được đưa ra vào khoảng nửa cuối thế kỷ XX, nhưng phải đến thập niên 90, khái niệm này mới được chấp nhận rộng rãi. Nhưng có thể thấy rõ một thực tế rằng, hiện nay đang có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hóa. Có học giả cho rằng, toàn cầu hóa chịu sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cùng với việc mở rộng thuộc địa của các đế quốc phương Tây nhằm vơ vét tài nguyên thiên nhiên, tận dụng nhân công rẻ mạt ở các nước bản xứ và giành giật thị trường, mở rộng thương mại có lợi cho các nhà tư bản. Có người lại cho rằng “toàn cầu hóa” là một tên gọi khác của “Mỹ hóa”, nhằm ám chỉ một chính sách bành trướng quyền lực, áp đặt sự thống trị của chủ nghĩa tư bản và kinh tế Mỹ đối với thế giới. Chính vì vậy, quan điểm này gặp phải đa số ý kiến trái chiều và đẩy tới thái độ chống trả quá trình nhằm đẩy lùi sự cô lập và phát triển đa dạng của các quốc gia. Bên cạnh đó cũng có những quan điểm lại đồng tình với sự phát triển tất yếu này của thế giới, họ định nghĩa “toàn cầu hóa” như là một sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ gắn kết, tác động phụ thuộc lẫn nhau, là quá trình mở rộng quy mô và cường độ hoạt động giữa các khu vực, các quốc gia các dân tộc trên phạm vi toàn cầu trong sự vận động phát triển cũng như những tác động qua lại giữa các khu vực, quốc gia và các dân tộc trên thế giới. Với quan niệm như vậy toàn cầu hóa chính là kết quả của quốc tế hóa. Mặc dù các quan điểm được nêu ở trên có sự khác nhau nhưng không thể phủ nhận một thực tế là toàn cầu hóa là kết quả phức hợp của nhiều yếu tố, trong đó có ba yếu tố chính: sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia. Như vậy, toàn cầu hóa là một trong sự biến đổi của thế giới hiện đại và là một tất yếu lịch sử, đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong lịch sử xã hội loài người.

5

Trải qua hàng triệu năm, lịch sử xã hội loài người đã trải qua các nấc thang phát triển khác nhau từ các cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật, cải cách, đổi mới và các nấc thang đó theo cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác-Lênin là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới những tiến hóa của các hình thái kinh tế – xã hội. Thời đại mà loài người chúng ta đang trải qua hiện nay chính là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp sang một thời kỳ mới và một thế kỷ mới. Cũng giống như các giai đoạn chuyển tiếp trước đây, các nhà kinh tế học dự đoán rằng nó sẽ đem đến những cơ hội đầy hy vọng cũng như thách thức đầy nguy hiểm. *BẢN CHẤT: Về bản chất của toàn cầu hóa, dựa trên nhiều quan điểm khác nhau ta xây dựng được những bản chất khác nhau của quan điểm đó: Loại quan điểm thứ nhất cho rằng toàn cầu hóa là hiện thân của chiến lược siêu cường Mỹ với sự liên kết của các nước tư bản và đế quốc khác, nhằm áp đặt cho thế giới sự thống trị của kinh tế Mỹ. Loại quan điểm thứ hai cho rằng, toàn cầu hóa kinh tế có nguồn gốc từ quốc tế hóa. Từ thế kỷ XVI-XVII khi sự phát triển của nền sản xuất thủ công bước vào giai đoạn mở rộng nhắm vào các thị trường tiêu thụ sản phẩm và đặc biệt là cung cấp nguyên vật liệu một cách ổn định. Đây là lúc quá trình quốc tế hóa nền kinh tế thế giới bắt đầu xuất hiện. Trong hoàn cảnh đó, các mối quan hệ thương mại trở thành nhân tố quan trọng của quá trình tái sản xuất và phân công lao động quốc tế, tác động mạnh mẽ tới chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu của các quốc gia. Kể từ đây, quá trình hợp tác quốc tế giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy sản xuất phát triển sâu rộng, mở rộng quy mô đó, nó đạt được trình độ cao nhất lúc này là toàn cầu hóa kinh tế. Nói cách khác, toàn cầu hóa kinh tế là quá trình quốc tế hóa chuyển biến mà thành, nó đưa lưu thông kinh tế toàn cầu diễn biến mạnh mẽ thông qua các loại hình quan hệ kinh tế khác nhau giữa các nước, các nền kinh tế và do đó khiến các nền kinh tế xâm nhập và gắn bó chặt chẽ với nhau, chuyển hóa thành nền kinh tế toàn cầu. Từ các quan điểm nêu trên của toàn cầu hóa, người ta cho rằng nó mang những bản chất rõ rệt như sau:

6

Chúng ta thấy, hiện nay, toàn cầu hóa về kinh tế được sự quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới, như nói ở trên toàn cầu hóa mang bản chất chủ yếu là toàn cầu hóa kinh tế, với những tác động sâu rộng của nó đến các mặt đời sống xã hội như quân sự, chính trị, văn hóa, môi trường,… Và việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong các lĩnh vực này đều liên quan đến toàn cầu hóa kinh tế. Chính vì vậy, các nhà kinh tế học cho rằng: - Toàn cầu hóa là một quá trình gắn liền với sự phát triển và tiến bộ xã hội diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu; - Toàn cầu hóa là quá trình làm biến đổi sâu sắc, toàn diện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, khóa học, môi trường,… của thế giới theo hướng toàn cầu hóa; - Thực chất của toàn cầu hóa là toàn cầu hóa kinh tế.

7

II. TÍNH TÍCH CỰC CỦA TOÀN CẦU HÓA Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới. Tính tất yếu khách quan của toàn cầu hóa kinh tế được thúc đẩy bởi các tiến bộ mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa kinh tế có sức hấp dẫn vì nó làm cho nền kinh tế của các quốc gia nếu khéo vận dụng trong chiến lược hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế của mình, được bổ sung những yếu tố mới, hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả hơn, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế trong nước. Toàn cầu hóa kinh tế đang ngày càng lôi cuốn nhiều dân tộc, quốc gia có trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị – xã hội khác nhau tham gia. 1. Đối với thế giới Toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng cao cho nền kinh tế thế giới. Trong đó, cơ cấu kinh tế thế giới có bước chuyển dịch mạnh về chất. Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ dựa vào công nghệ cao và tri thức tăng mạnh. Đây là cơ hội và tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển và hiện đại hóa xã hội loài người. Các nước có nền kinh tế chậm phát triển nhờ tham gia toàn cầu hóa kinh tế, họ có điều kiện tiếp nhận các nguồn lực phát triển từ bên ngoài như vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ chuyển giao, kinh nghiệm tổ chức quản lý,… khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên,… thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế trong nước. Toàn cầu hóa kinh tế thực chất là mở rộng và phát triển thị trường toàn cầu. Sự giao lưu hàng hóa thông thoáng hơn, hàng rào quan thuế và phi quan thuế bị dỡ bỏ, nhờ đó trao đổi hàng hóa tăng mạnh, có lợi cho sự phát triển của các nước. Nửa đầu thế kỷ XX, kim ngạch buôn bán của thế giới tăng 2 lần, đến nửa sau thế kỷ XX, do cắt giảm hàng rào quan thuế và phi quan thuế nên kim ngạch buôn bán của thế giới đã tăng 50 lần. Sự phát triển mạnh mẽ thị trường toàn cầu dưới tác động của toàn cầu hóa đã cho phép các nước đang và chậm phát triển có thể tận dụng các nguồn lực của mình, nhất là nguồn lực lao động dồi dào để tạo ra lợi thế cạnh tranh trong một số ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ.

8

Dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, những thành tựu của khóa học – công nghệ được chuyển giao nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi tạo điều kiện cho các nước đi sau trong sự phát triển kinh tế có điều kiện tiếp cận với những thành tựu mới của khóa học – công nghệ để phát triển. Cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế, nguồn vốn đầu tư quốc tế tăng mạnh góp phần điều hòa dòng vốn theo lợi thế so sánh tạo điều kiện cho các nước tiếp cận được nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài, hình thành hệ thống phân công lao động quốc tế có lợi cho cả bên đầu tư và bên nhận đầu tư. (Tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài năm 1997 gấp 800 lần năm 1914). Toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy sự cải cách sâu rộng các nền kinh tế quốc gia và sự hợp tác khu vực để các chủ thể này có thể nâng cao vị thế cạnh tranh và phát triển được trong nền kinh tế thị trường thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế làm cho mạng lưới thông tin và giao thông vận tải bao phủ toàn cầu góp phần làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh, sự giao lưu thuận tiện nhanh chóng. Toàn cầu hóa kinh tế mang lại lợi ích nhiều mặt cho các tầng lớp dân cư. Mọi người có điều kiện tận hưởng các sản phẩm và dịch vụ mới, rẻ từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt những người lao động ở các nước nghèo có cơ hội tiếp cận với thị trường lao động quốc tế, tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế. 1.1. Tích cực đối với nền kinh tế Toàn cầu hóa kinh tế phát triển phá bỏ những rào cản kinh tế giữa các quốc gia, mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, từ đó các quốc gia có thể tận dụng cơ hội phát triển thị trường bên ngoài. Với nền kinh tế thị trường thì việc tạo lập một thị trường quy mô cho phát triển kinh tế là điều kiện quan trọng. Từ việc khai thông thị trường quốc gia với quốc tế cho phép bổ sung những mặt yếu của nền kinh tế dân tộc. Thực tế hiển nhiên thấy rằng, không có một quốc gia nào có đầy đủ các điều kiện xây dựng một nền kinh tế nội địa hiệu quả mà không cần tính tới thị trường bên ngoài dù cho có là những quốc gia khổng lồ như: Mỹ, Nga, Trung Quốc.

9

Toàn cầu hóa kinh tế mở ra khả năng cho các nước chậm phát triển nhanh chóng tham gia vào hệ thống phân công lao động thế giới, từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế có hiệu quả, đẩy nhanh và rút ngắn tiến trình hiện đại hóa. Trong xu thế toàn cầu hóa phân công lao động quốc tế ngày một sâu sắc. Xu hướng phân công lao động quốc tế ngày nay đang chuyển dịch từ phân công theo chiều dọc sang chiều ngang. Có nghĩa là trước đây dưới sự thống trị của các nước tư bản phát triển hình thành hai nhóm nước rõ rệt, một nhóm lạc hậu chuyên cung cấp nhiên vật liệu, còn nhóm phát triển chuyên gia công, chế tạo sản phẩm và bán cho các quốc gia khác. Hình thức phân công này làm cho các quốc gia lạc hậu lại càng lạc hậu hơn. Các quốc gia phát triển khống chế thị trường, hạn chế sự xâm nhập bên ngoài, dẫn tới chia cắt thị trường, cản trở sự phát triển của sản xuất và phân công lao động trên toàn thế giới. Nhưng cuối cùng nhờ xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, hình thức phân công theo chiều ngang trở thành phân công chủ yếu với nội dung của nó là phân công theo bộ phận cấu thành sản phẩm. Với sự phát triển của loại hình phân công lao động quốc tế này, sản xuất trên phạm vi toàn cầu tạo thành một mạng lưới mà trong đó mỗi quốc gia tham dự là một mắt xích, tăng thêm sự phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau giữa các nền kinh tế tạo ra một cục diện xâm nhập, đan xen, bổ sung, hỗ trợ qua lại lẫn nhau. Tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia phát huy lợi thế, tiết kiệm lao động xã hội, tận dụng nguồn lực cho phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế tạo cơ hội cho các quốc gia tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ kỹ thuật cũng như công nghệ quản lý. Ngày nay trong nền kinh tế toàn cầu cùng với việc mở cửa thị trường làm cho các quan hệ trao đổi hàng hóa và dịch vụ tăng mạnh mẽ là dòng lưu chuyển vốn, công nghệ cũng được mở rộng và đẩy nhanh. Các quốc gia có thể thu hút, sử dụng các dòng vốn quốc tế. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển nói riêng - nơi đang rất cần vốn và công nghệ quản lý tiên tiến. Là điều kiện và là nhân tố kích thích sự phát triển và lan tỏa của khóa học công nghệ. Cho phép các quốc gia được hưởng những ưu đãi về thuế quan, hàng hóa có thể nhanh chóng tiếp cận được với thị trường thế giới.

10

Toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy tự do mậu dịch phát triển. Nhìn lại tình hình buôn bán của các nước trên thế giới hiện nay, hầu như không còn tồn tại tình trạng thị trường đơn nhất ngay cả ở cường quốc kinh tế phát triển. Giờ đây, hầu như thị trường nội địa của các nước đều gắn với thị trường thế giới, là bộ phận của thị trường thế giới. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng như các ngành ngoại thương đóng vai trò rất lớn đối với tăng trưởng tổng sản lượng quốc nội (GDP). Năm 2004, mức độ phụ thuộc của GDP Mỹ vào ngành ngoại thương tới 25,9%, năm 2005, mức độ phụ thuộc của GDP Trung Quốc với ngành ngoại thương và buôn bán đối ngoại tới 61%. Do tính phụ thuộc vào ngành ngoại thương ngày càng cao, nên mức độ tự do hóa mậu dịch của các nước trong khu vực Đông Nam Á cao hơn các nước ở Mỹ Latinh. Bởi vì, tới nay sự phát triển kinh tế của các nước Mỹ Latinh chủ yếu dựa vào nội thu, trong khi nhân tố nhu cầu nước ngoài thấp hơn nhiều so với các nước Đông Á. Toàn cầu hóa kinh tế đã đẩy mạnh tiến trình quốc tế hóa lưu chuyển vốn, có lợi cho tự do hóa đầu tư. Từ năm 2001 tới 2003, mặc dù đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm sút rất lớn, nhưng bắt đầu từ năm 2004 đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại. Theo “Báo cáo đầu tư năm 2005”, do Hội nghị phát triển mậu dịch Liên hợp quốc công bố, tổng số FDI trên toàn thế giới đã lên tới 648 tỷ USD, tăng 2% so với năm 2003 đã được ngăn chặn và bắt đầu gia tăng trở lại trên thế giới. Năm 2004, các nước phương Tây đã tiếp nhận FDI trị giá khóang 380 tỷ USD, giảm 14% so với năm 2003. Trong khi đó, FDI ở các nước đang phát triển tăng 40%, với tổng giá trị 233 tỷ USD. Rõ ràng nếu không có toàn cầu hóa kinh tế thì không thể quốc tế hóa vốn và di chuyển dễ dàng từ nước này qua nước khác. Toàn cầu hóa kinh tế chẳng những thúc đẩy FDI tăng lên mà ở mức độ lớn đã thúc đẩy tự do hóa đầu tư. Mấy năm qua, do môi trường đầu tư được cải thiện, xu thế lưu thông tự do đầu tư đã tăng lên rõ rệt. Theo báo cáo của “Hội nghị Mậu dịch Liên hợp quốc” năm 2004, hai nước có FDI đổ vào nhiều nhất là Mỹ và Anh, trong đó Mỹ tiếp nhận tới 96 tỷ USD và các nướ c Anh tới 78 tỷ USD. Mặc dù các nước đang phát triển đã ra sức mở cửa thị trường vốn của mình và đưa ra nhiều chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài, nhưng do cơ chế và thị trường còn nhiều khâu yếu kém, nên trình độ tự do hóa tiền vốn của các nước đang phát triển kém hơn so với các nước phát triển. Đây chính là

11

vấn đề mà các nước đang phát triển cần nghiên cứu và hóan thiện để tận dụng được cơ hội tốt của toàn cầu hóa kinh tế. Toàn cầu hóa đã “bật đèn xanh” cho tự do hóa lưu chuyển tiền tệ. Trong điều kiện ngày nay, mọi tổ chức ngân hàng, tài chính, tiền tệ và thị trường chứng khoán của các nước đều phát triển theo xu thế toàn cầu hóa. Ba thị trường chứng khoán nổi tiếng là New York, London và Tokyo giờ đây đã len lỏi tới khắp nơi trên thế giới để thu hút tiền vốn. Thông qua việc không ngừng điều chỉnh tỷ giá hối đoái, những đồng tiền như USD, Euro và đồng Franc của Thụy Sĩ đều trở thành đồng tiền dự trữ và có thể tự do lưu hành ở các nước. Tóm lại, tiền tệ được tự do hóa lưu hành như hiện nay rõ ràng là do tác động mạnh mẽ của tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Toàn cầu hóa đã thúc đẩy phát triển sản xuất nguyên quốc gia. Những năm qua, đặc điểm nổi bật nhất của sản xuất xuyên quốc gia là sản xuất của các công ty xuyên quốc gia mở rộng mạnh mẽ ra các nước. Đầu năm 1994, Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ đã khởi động, các công ty xuyên quốc gia của Mỹ nhận được cơ hội này thành lập một loạt công ty con ngay gần biên giới Mexico. Những công ty này đã tận dụng nguyên vật liệu, tải lực, vật lực của địa phương sản xuất hàng hóa giá rẻ đưa về thị trường nội địa Mỹ. Hầu hết các công ty xuyên quốc gia lớn của Mỹ và các nước trên thế giới đều tới Trung Quốc lập văn phòng hóac trụ sở công ty để tiến hành sản xuất kinh doanh ngay tại Trung Quốc. 1.2. Tích cực đối với văn hóa, xã hội Toàn cầu hóa kinh tế phát triển nhanh chóng giúp cho hầu hết các nước dịch chuyển sang tiêu chuẩn sống tốt hơn cho mọi người. Xem xét một số cải tiến chúng ta có thể thấy được sự thay đổi chất lượng cuộc sống của người dân. T ỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh giảm mạnh. Trong khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, họ đã giảm dần 60% đến 39/1000 ca sinh giữa những năm 1960 và 1990. Tỷ lệ biết chữ đã tăng lên trên toàn thế giới. Tại Ấn Độ, tỷ lệ dân số sống trong đói nghèo đã giảm khoáng một phần ba trong năm 1990.

12

Trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế, các quốc gia đều nhanh chóng được tiếp nhận những thông tin, tri thức mới. Quá trình này góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo nên cơ sở nền tảng cho dân chủ phát triển. Trong môi trường bảo hộ, đặc biệt với nền kinh tế khép kín có thể áp dụng những thông tin, trí thức mới. Ngày nay, mọi người đều có thể tiếp cận được với thông tin toàn cầu, sự ngăn cách không gian hầu như không còn ý nghĩa. Toàn cầu hóa kinh tế thực sự thúc đẩy hiểu biết, xích lại gần nhau giữa các dân tộc, quốc gia. Toàn cầu hóa kinh tế đem lại điều kiện giao lưu hội nhập của con người giữa các nền văn hóa, không những con người hiểu nhau hơn mà còn nâng cao giá trị văn hóa truyền thống, xóa bỏ những hủ tục mở ra điều kiện phát triển cho con người và cho sự chung sống hòa bình của các nền văn hóa trên thế giới. Mở ra khả năng phối hợp nguồn lực của các quốc gia dân tộc giải quyết các vấn đề có tính toàn cầu như: môi trường, dân số hay chính trị,… Việc toàn cầu hóa kinh tế tạo cơ hội hội nhập vào toàn cầu nhằm giảm bớt, xóa bỏ những cơ sở nảy sinh những vấn đề phức tạp liên quan tới các quốc gia. Việc phối hợp sức mạnh để giải quyết có thể thực hiện trên nhiều cấp độ khác nhau. Các quốc gia có thể tham gia trên cơ sở hoạch định những chính sách theo một hướng thống nhất dựa trên nguồn lực riêng hoặc phối hợp theo khuôn khổ. 2. Tích cực đối với các quốc gia đang phát triển 2.1. Phát huy được lợi thế so sánh để phát triển Lợi thế so sánh luôn biến đổi phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước. Nước nào có nền kinh tế càng kém phát triển thì lợi thế so sánh càng suy giảm. Đa số các nước đang phát triển chỉ có lợi thế so sánh bậc thấp như lao động rẻ, tài nguyên, thị trường… Đó là một thách thức lớn đối với họ. Nhưng toàn cầu hóa cũng mang lại cho các nước đang phát triển những cơ hội lớn mới, nếu biết vận dụng sáng tạo để thực hiện được mô hình phát triển rút ngắn. Chẳng hạn, bằng lợi thế vốn có về tài nguyên, lao động, thị trường, các ngành công nghiệp nhẹ, du lịch, dịch vụ,… các nước đang phát triển có thể tham gia vào tầng thấp và trung bình của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu với cơ cấu kinh tế có các ngành sử dụng nhiều lao động, nhiều nguyên liệu, cần ít vốn đầu tư, công nghệ trung bình tiên tiến tạo ra những hàng hóa - dịch vụ không thể thiếu trong cơ cấu hàng hóa - dịch vụ trên thị trường thế giới. Để làm được việc đó các nước đang phát

13

triển có cơ hội tiếp nhận được các dòng vốn quốc tế, các dòng kỹ thuật - công nghệ mới và kỹ năng quản lý hiện đại. Nhưng cơ hội đặt ra như nhau song ...


Similar Free PDFs