Tiểu luận Lịch sử Đảng QUYẾT ĐỊNH ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI LÀ BƯỚC NGOẶT LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM. NHIỆM VỤ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC PDF

Title Tiểu luận Lịch sử Đảng QUYẾT ĐỊNH ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI LÀ BƯỚC NGOẶT LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM. NHIỆM VỤ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Author Huyền Giang
Course Lịch sử đảng
Institution Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Pages 19
File Size 240.6 KB
File Type PDF
Total Downloads 172
Total Views 345

Summary

Download Tiểu luận Lịch sử Đảng QUYẾT ĐỊNH ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI LÀ BƯỚC NGOẶT LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM. NHIỆM VỤ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC PDF


Description

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG

TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: QUYẾT ĐỊNH ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI LÀ BƯỚC NGOẶT LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM. NHIỆM VỤ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY.

Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Giáo viên hướng dẫn: Vũ Ngọc Lương Sinh viên: Giang Khánh Huyền Lớp: Truyền thông Marketing K40 A1

Hà Nội, 2021

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................3 NỘI DUNG.................................................................................. 4 CHƯƠNG I. ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI................4 1.1. Tình hình quốc tế và trong nước.......................................4 1.2. Đường lối đổi mới.............................................................6 CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY................................................................... 13 KẾT LUẬN................................................................................. 17 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................18

2

MỞ ĐẦU Quyết định đổi mới tại Đại hội VI (tháng 12.1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam với nội dung quan điểm đổi mới đề ra, được Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII và các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương của Đảng bổ sung, cụ thể hóa và phát triển. Quyết định đổi mới đã tạo ra một luồng sinh khí mới cho Đảng Cộng sản và cho đất nước ta trong tình hình lúc bấy giờ, đường lối đổi mới đó đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được thực tiễn cuộc sống kiểm nghiệm, khẳng định là đúng đắn. Đường lối đó là cả một quá trình Đảng ta tìm tòi, nghiên cứu tổng kết từ thực tiễn cách mạng nước ta trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu có phê phán, chọn lọc kinh nghiệm của cách mạng thế giới, tham khảo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, đặc biệt là các nước trong khu vực. Khẳng định quyết định đổi mới đất nước của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Trên nền tảng giá trị khoa học và hiện thực, trong công cuộc đổi mới này, sinh viên cần phải nhận thức rõ và hành động thực tiễn tốt hơn nữa, góp phần vào thực hiện hóa đường lối đổi mới của Đảng và xây dựng một xã hội phồn vinh.

3

NỘI DUNG CHƯƠNG I. ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI 1.1. Tình hình quốc tế và trong nước Nửa đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình quốc tế và trong nước diễn biến hết sức phức tạp: Trên bình diện quốc tế, mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa bộc lộ những khuyết tật. Nhằm khắc phục những hạn chế, tìm kiếm giải pháp khắc phục những mâu thuẫn vốn có của mô hình chủ nghĩa xã hội, nhiều đảng cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa chủ trương tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa và cải tổ. Lúc này chiến tranh lạnh kết thúc vì thế xu thế đối đầu trở thành đối ngoại. Toàn cầu hóa trở thành xu thế khách quan. Chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột, bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra mạnh mẽ, xuất hiện hình thái kinh tế mới của thời đại công nghệ thông tin là kinh tế tri thức, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống tình trạng đói nghèo, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia - dân tộc. Nhân dân thế giới đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Các 4

nước cần thiết phải hợp tác với nhau để chống nguy cơ chiến tranh, khủng bố, dịch bệnh, biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường sinh thái. Công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa diễn ra trong điều kiện các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Trên thực tế, cơ hội, thuận lợi đan xen với những khó khăn, thách thức. Đổi mới và phát triển đất nước đòi hỏi phải giải quyết những mối quan hệ lớn, đồng thời, nhạy bén nắm bắt những vấn đề mới nảy sinh bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Ở trong nước, Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Sản xuất kém phát triển, các chỉ tiêu cơ bản như: lương thực, thực phẩm, điện, than, xi măng, phân bón, gỗ, vải, hàng xuất khẩu không đạt, hiệu quả sản xuất thấp. Bên cạnh đó, phân phối, lưu thông rối ren do Nhà nước áp dụng chính sách “ngăn sông, cấm chợ”. Các công cụ đòn bẩy kinh tế như chính sách về giá cả, tiền tệ, tài chính, tiền lương... đều không phát huy tác dụng, dẫn đến lạm phát gia tăng mạnh (trên 300% năm 1985 và lên tới 774,7% năm 1986). Những khó khăn về sản xuất và phân phối, lưu thông dẫn đến mất cân đối lớn trong nền kinh tế giữa cung và cầu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu, giữa thu và chi, giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Trong xã hội, xuất hiện nhiều tiêu cực, pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Một số cán bộ, công chức, viên chức nhà nước lộng quyền, tham nhũng. Đời sống của nhân dân, nhất là nông dân, công nhân, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn. Nhiều nhu cầu chính đáng của người dân như ăn, ở, thuốc men không được đáp ứng. Trước tình hình đó, niềm

5

tin của các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước bị giảm sút nghiêm trọng. Lợi dụng những khó khăn của Việt Nam, các thế lực thù địch ra sức kích động, lôi kéo người vượt biên trái phép. Trong xã hội xuất hiện làn sóng người vượt biên trái phép đến các nước, các vùng trong khu vực như Malaisia, Hồng Kông để từ đó đi tiếp những nước khác. Vấn đề cấp thiết đặt ra là phải ổn định kinh tế - xã hội, tùng bước đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng. Đó là tiền đề để đưa đất nước phát triển, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và tình trạng kém phát triển. Yêu cầu cấp thiết trước tình hình đó là phải sửa đổi cơ chế, chính sách, cơ cấu kinh tế trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan, những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những đặc điểm riêng của đất nước, khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội và cả những biểu hiện bảo thủ, trì trệ trong tư duy, quan điểm và hoạt động thực tiễn. Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông nối liền một dải, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong niềm vui chiến thắng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. 1.2. Đường lối đổi mới Trải qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn kết hợp với đổi mới tư duy lý luận, quan điểm và chính sách đổi mới của Đảng đã từng bước hình thành và thực hiện từng phần.

6

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”, Đại hội đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm 1975-1985, trong đó, có cả những sai lầm, khuyết điểm về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Trên cơ sở phân tích sâu sắc những thành công và hạn chế sau 10 năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Nội dung đường lối đổi mới được xác định trên những vấn đề cơ bản: * Đổi mới cơ cấu kinh tế: Có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác ngoài kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của V.I.Lênin “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ” [6, tr.389-390]. Các thành phần đó là: kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể); kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên tự túc, tự cấp. Nhận thức và vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn. * Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp; đổi mới kế hoạch hóa, kết hợp kế hoạch hóa với thị trường, từng bước đưa nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là “xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế” [1, tr.63]. Trong cơ chế quản lý đó, tính kế hoạch là đặc trưng thứ nhất và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai. Thực chất của cơ chế mới về quản lý 7

kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. * Đổi mới và tăng cường vai trò quản lý: điều hành của Nhà nước về kinh tế: Tăng cường bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương thành một thể thống nhất, có sự phân biệt rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm tùy cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ: “Phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế của các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương với chức năng quản lý sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở” [6, tr.398], Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội, thực hiện cơ chế “Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không chi bằng đạo lý” [6, tr.455]. * Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại: Trên cơ sở mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài thông qua việc công bố chính sách khuyến khích đầu tư với nhiều hình thức, nhất là những ngành đòi hỏi kỹ thuật cao và làm hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho người nước ngoài và Việt kiều về nước đầu tư, hợp tác kinh doanh. * Đổi mới chính sách văn hóa - xã hội: Ban hành các chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Chú trọng phát huy yếu tố con người và lẩy việc phục vụ con người là mục đích cao cả nhất. * Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng: Trên cơ sở nâng cao nhận thức lý luận, vận dụng đúng quy luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí hoặc bảo thủ trì trệ. Đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước tiên là đổi mới tư duy kinh tế trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa MácLênin, kế thừa tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, phải nắm vững thực tiễn và không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ và đổi mới phong cách, phương pháp làm việc.

8

Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn tình hình của đất nước, Ðại hội nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm, khuyết điểm. Ðổi mới tư duy, nhận thức rõ hơn về những quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và những năm đầu khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Ðại hội đề ra đường lối đổi mới. Ðại hội xác định: Ðảng phải trưởng thành về lãnh đạo chính trị, phát triển và cụ thể hóa đường lối, đề ra những giải pháp đúng đắn đối với những vấn đề mới của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Ðể tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Ðảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Ðại hội quyết định bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Ðiều lệ Ðảng cho phù hợp tình hình mới. Ðổi mới toàn diện thật sự là ý Ðảng, lòng dân. Nghị quyết Ðại hội VI vào cuộc sống là quá trình thể nghiệm, tìm tòi, từng bước cụ thể hóa, phát triển và tổ chức thực hiện những định hướng lớn. Ðảng và Nhà nước vừa tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội cấp bách, giữ vững ổn định chính trị, vừa thực hiện đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các chủ trương, chính sách đổi mới bắt đầu mang lại kết quả rõ rệt, tình hình kinh tế và đời sống nhân dân dần được cải thiện, sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, lòng tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới tăng lên. Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội đã tìm lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội bằng việc đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ

9

nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối đổi mới là sản phẩm và tư duy khoa học của toàn Đảng, toàn dân, thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng. Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam được khởi xướng trên những cơ sở khách quan, khoa học, trước bối cảnh quốc tế có những chuyển biến hết sức sâu sắc và nhanh chóng. Đường lối đổi mới đã đi vào cuộc sống và ngày càng thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của nó, điều đó cho thấy tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong việc khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới. Đường lối đổi mới của Đại hội VI là kết quả của sự khảo nghiệm thực tiễn sinh động và sự đổi mới tư duy lý luận, trước hết là tư duy kinh tế. Đổi mới nhằm nhận thức đúng đắn thực tiễn của đất nước, thật sự tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội, đề ra đường lối, chính sách thiết thực, có hiệu quả. Đổi mới là nhận thức đúng đắn hơn những luận điểm của C.Mác, Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin và Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.. Với đường lối đổi mới và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, với sự quản lý, điều hành của Nhà nước, sự phấn đấu của toàn dân, toàn quân, tranh thủ cơ hội và vượt qua những thách thức 35 năm qua, đất nước đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

10

35 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Đã chuyển đổi thành công cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý. Từ nền kinh tế tập trung, kế hoạch hóa, quản lý bằng biện pháp hành chính, bao cấp, kinh tế hiện vật, khép kín chuyển sang nền kinh tế hàng hóa, nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ vậy, kinh tế tăng trưởng nhanh, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội (1996), từ nước kém phát triển trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình (2008), GDP và thu nhập bình quân đầu người tăng hơn 20 lần. Việt Nam đang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, vận hành đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng được tăng cường, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và cả hệ thống chính trị. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều thành công với việc làm rõ các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, xây dựng hệ thống pháp luật, nhất là Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước bằng pháp luật. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt hơn chức năng giám sát và phản biện xã hội. Đổi mới hệ thống chính trị được kết hợp chặt chẽ với đổi mới kinh tế, thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.

11

Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và củng cố vững chắc đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện có kết quả các chính sách xã hội và tiến bộ, công bằng xã hội. Các chính sách về lao động, việc làm, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm và cứu trợ xã hội, chính sách ưu đãi với người có công được thực hiện tốt hơn, bảo đảm an sinh xã hội. Các Chương trình 135 (1998), 134 (2004), 304 (2008) đã hướng vào hỗ trợ những xã nghèo, hộ nghèo, huyện nghèo. Thực hiện thành công tám mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Đã giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 58% (1993) hiện nay còn dưới 4,5%, có 43 triệu người thoát nghèo. Không ngừng phát triển giáo dục, văn hóa, khoa học, công nghệ, xây dựng con người. Đang tập trung thực hiện hai chương trình lớn: Chương trình quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đến nay đã có 11 huyện, 1.300 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Đã tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn bạo loạn, lật đổ và “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ chiến lược quốc phòng, an ninh với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, đối ngoại. Chú trọng xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đã thực hiện nhất quán và thành công đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự 12

nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 186 nước, quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước, tham gia có trách nhiệm trong các tổ chức quốc tế và khu vực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, tạo dựng môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác để xây dựng và phát triển đất nước. Những thành tựu to lớn trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử để chúng ta vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. Hơn 30 mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, mặc dù còn nhiều vấn đề mới nảy sinh cần tiếp tục thử nghiệm và hoàn thiện, song con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Nền chính trị ổn định, kinh tế tiếp tục tăng trưởng, kết cấu hạ tầng xây dựng đồng bộ và ngày càng khang trang, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận các tầng lớp dân cư được cải thiện. Điều đó cho phép chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với quyết định mang tính chất bước ngoặt cùng với đường lối đúng đắn, khoa học và sáng tạo. CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY Quyết định đổi mới và đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện là do Đảng ta đã nhận thức, vận dụng và phát triển s...


Similar Free PDFs