TIEU LUAN MON Triet HOAN Chinh PDF

Title TIEU LUAN MON Triet HOAN Chinh
Author Quyên Võ
Course Chủ nghĩa xã hội khoa học-CNXHKH
Institution Đại học Đà Nẵng
Pages 17
File Size 268.3 KB
File Type PDF
Total Downloads 210
Total Views 349

Summary

Download TIEU LUAN MON Triet HOAN Chinh PDF


Description

LỜI MỞ ĐẦU Triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng… luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lí giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động. Triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vậy biện chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác- Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản, là linh hồn của triết học Mác- Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý luận. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và là cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, do đó lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống nhất biện chứng giữa chúng, vì thế, cũng có những nội dung cụ thể và những biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử. Như chúng ta đã biết, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI – 1986, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới với một xuất phát điểm phải nói là rất thấp. Nhưng nhìn lại quá trình hơn 20 năm đổi mới ấy chúng ta không khỏi tự hào về những thành quả mà chúng ta đã đạt được về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội… đất nước ta đã chứng tỏ được bản lĩnh của mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên chúng ta cũng đã phải mất đi nhiều thứ mà không phải ai cũng nhìn thấy. Phải chăng đây là một quy luật tất yếu của sự phát triển? Có được những kết quả đó là do Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua 20 năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay. Vì vậy, em xin chọn đề tài “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam”.

Trang 1

CHƯƠNG I MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI I. Lịch sử ra đời Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học duy vật trước Mác không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu hoạt động thực tiễn như là hoạt động tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài con người. Nói cách khác, Họ gạt bỏ vai trò của thực tiễn trong xã hội. Mác-Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khắc phục được những hạn chế trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, Mác-Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. II. Lý luận 1. Khái niệm Lý luận là sự nhận thức bản chất, mối liên hệ bên trong tất yếu của đối tượng và diễn đạt kết quả của nhận thức đó bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, phán đoán về quy luật nội tại của đối tượng. Hay nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức phản ánh mối liên hệ bản chất, những tính quy định của thế giới khách quan, Hồ Chí Minh cũng đề cập đến lý luận và Người khẳng định: “Lý luận là sự tổng kết những tinh hoa của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”. 2. Đặc điểm Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng. Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khái quát tri thức kinh nghiệm. Lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm mà vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm. Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự. III. Thực tiễn 1. Khái niệm Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính xã hội, lịch sử của con người nhằm biến đổi tự nhiên và xã hội. C.Mác đánh giá: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơbăc là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức Trang 2

khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người là thực tiễn”. 2. Đặc điểm Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, và để làm chủ thế giới. Vì vậy, không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối quan hệ với nhận thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định “chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta cải biến tự nhiên”. Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức của con người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộ lộ ra những thuộc tính, những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưỡng nó phát triển vì thế không thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ không có khoa học, không có lý luận. Thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo công cụ, phương tiện máy móc mới, hỗ trợ con người trong qúa trình nhận thức, khám phá, chinh phục thế giới. Ăngghen cho rằng, nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc đẩy nhận thức khoa học phát triển nhanh hơn hàng chục trường đại học. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Theo Mac và Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề của thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Tất nhiên, nhận thức xã hội còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lô gic nhưng tiêu chuẩn lô gic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn. Đó là tư tưởng cơ bản của Mac-Ăngghen khi đưa phạm trù thực tiễn vào nội dung của lý luận nhận thức, tư tưởng đó đã được Lênin bảo vệ và phát triển sâu sắc hơn trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, trong đó Lênin nhắc lại luận cương thứ hai của Mac về Phoi-ơbăc và Người kết luận “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Nếu không bám sát thực tiễn cuộc sống chúng ta sẽ không thể có lý luận, không thể có khoa học, không xác định nổi bất kỳ đề tài khoa học nào với đúng nghĩa của nó. Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự mang tính chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực tiễn, là cơ sở để phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý luận của con người. Trang 3

Hoạt động thực tiễn có ba dạng cơ bản, đó là: + Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản đầu tiên của thực tiễn, có vai trò quyết định đối với các dạng hoạt động khác của thực tiễn. Vì: nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đến sự sinh tồn và phát triển của con người và xã hội loài người. + Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. + Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các qui luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. CHƯƠNG II VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN I. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn Lý luận chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn. Lý luận thúc đẩy hoạt động thực tiễn. Lý luận giữ vai trò quan trọng trong tổ chức hoạt động của con người ở từng lĩnh vực riêng biệt cũng như trong toàn bộ. Tính tổ chức của hoạt động người thể hiện rõ ở việc xác định mục đích, mục tiêu hoạt động, hình dung mô hình kết quả của hoạt động người, ở việc lập kế hoạch, chương trình hành động, ở việc xác định những lợi ích, khả năng tuyên truyền vận động, thuyết phục đông đảo quần chúng hành động vì mục tiêu chung. Không thể có những điều đó nếu thiếu lý luận. Giữa lý luận và thực tiễn không phải là mối quan hệ của hai quá trình độc lập, tách rời được kết hợp máy móc lại với nhau theo kiểu gom buộc hai thứ thành một khối, trái lại, mối liên hệ đó có cơ sở chung nằm ở chính thực tiễn. Chỉ có trong thực tiễn con người mới tiến hành nhận thức, tạo ra lý luận của mình và sự xuất hiện của nhận thức, lý luận là do yêu cầu tất yếu của thực tiễn, nó đòi hỏi phải được nhận thức, được ý thức. Như vậy, lý luận trở thành một yếu tố không thể thiếu của thực tiễn. Và thực tiễn với tính cách là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, cũng trở thành khâu quyết định của nhận thức lý luận. Sự thành công trong hoạt động thực tiễn phụ thuộc vào vai trò quyết định của sự hiểu biết đúng đắn về bản chất, quy luật và xu thế phát triển khách quan của sự vật, hiện tượng. Lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lý luận, phương pháp, biện pháp thực hiện. Tóm lại, lý luận khoa học và thực tiễn cấu thành sự thống nhất giữa các mặt đối lập, trong đó ngay từ đầu vai trò quyết định đã thuộc về thực tiễn. Chính thực tiễn đã quyết định những đặc trưng cấu trúc căn bản của quá trình nhận thức cả ở giai đoạn cảm tính lẫn lí tính. Nhưng lý luận không tự hạn chế vai trò của mình chỉ ở việc khái quát giản đơn thực tiễn, mà còn xử lí sáng tạo dữ liệu kinh nghiệm và bằng cách đó mở ra những triển vọng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Trong quan hệ với thực tiễn, lí luận giữ vai trò vạch kế hoạch. Nếu thực tiễn có trước lý luận về mặt lịch sử, tức là ở khía cạnh nguồn gốc của nhận thức, thì ở trình độ tư duy khoa học đã phát triển lại gia tăng đáng kể khả năng và tính tất yếu của sự vận dụng lý luận, nội dung Trang 4

các mô hình tư tưởng về các đối tượng, các thuộc tính và các quan hệ của chúng, mà ít cần hướng trực tiếp đến thực tiễn. Điều này mở rộng đường cho tư duy lý luận thoát khỏi áp lực của kinh nghiệm trực tiếp và tạo khả năng vượt xa trước thực tiễn. II. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện trước hết ở chỗ: Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức. Nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải tạo thế giới mà buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó mà hình thành nên các lý thuyết khoa học. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người cần phải "đo đạc diện tích và đong lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí" mà toán học đã ra đời và phát triển. Hoặc sự xuất hiện học thuyết mácxít vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản bấy giờ. Ngay cả những thành tựu khoa học mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gen người cũng ra đời từ chính hoạt động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người... Suy cho cùng không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy, chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới. Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó còn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết: "Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý". Như vậy, thực tiễn là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhấn mạnh vai trò đó của thực tiễn, V.I.Lênin đã viết: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức". Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc,

Trang 5

quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa. III. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn Lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, nghĩa là phải nghiên cứu, nắm bắt cụ thể tình hình thực tiễn, phải nhìn rõ những yêu cầu, những vấn đề do thực tiễn đặt ra và đòi hỏi lý luận phải trả lời. Trong số chúng, phải đặc biệt chú ý đến những vấn đề cấp bách để tập trung giải đáp. Cần thấy rằng, về thực chất, những vấn đề đó bao giờ cũng do chính con người đang hoạt động đặt ra từ thực tiễn. Vì vậy, đòi hỏi quan trọng nhất ở đây là phải thấy được lợi ích, xuất phát từ lợi ích của những lực lượng xã hội nhất định và dựa vào đó để xác định mục đích, những nhiệm vụ, phương thức giải quyết chúng về mặt lý luận. Lý luận phải phản ánh trung thực đối tượng như vốn có. Thực tiễn nói chung và thực nghiệm khoa học không thể đạt được mục đích, kết quả mong muốn nếu lý luận cung cấp cho nó những chỉ dẫn, giải pháp sai lầm về đối tượng hiện thực. Một khía cạnh rất quan trọng được yêu cầu này đặt ra là lý luận phải được kiểm nghiệm, phải được xác nhận là chân thực trước khi áp dụng vào thực tiễn. Điều đó đòi hỏi người hoạt động lý luận phải nắm vững những tiêu chuẩn của chân lí, phải có năng lực kiểm tra tính khoa học xác thực của lý luận bằng các tiêu chuẩn logic và thực tiễn. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn. Đây là yêu cầu tự nhiên của hoạt động lý luận. Nhưng vận dụng lý luận không thể tùy tiện, mà phải có phương pháp, cách thức phù hợp. Phải có năng lực hiện thực hóa lí luận. Tùy theo những yêu cầu cụ thể của thực tiễn mà áp dụng những lý luận tương ứng. Đối với những lý luận chuyên môn cụ thể phải thấy được phạm vi, tác dụng của từng lý luận cụ thể với lý luận chung và biết kết hợp giữa chúng. Đặc biệt, phải thấy được những khâu trung gian của sự chuyển hóa lý luận thành thực tiễn gắn với từng người, nhóm xã hội, giai tầng cụ thể. Lý luận phải đóng vai trò chỉ đạo, dẫn đường cho thực tiễn. Mặc dù lý luận có nguồn gốc từ thực tiễn, nhưng khi đã trở thành hệ thống quan điểm, thì nó cũng chính là thực tiễn đã được ý thức, do đó nó đóng vai trò dẫn đường cho thực tiễn. Muốn vậy, nó không thể theo sau thực tiễn. Mặt khác, để thực hiện được vai trò này, thì lý luận phải mang tính khoa học, tiên tiến và cách mạng. Lý luận phải không ngừng được bổ sung, đổi mới, phát triển hơn để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Sở dĩ như vậy là vì, bản thân thực tiễn không ngừng vận động, phát triển, cho nên lý luận không thể đứng im. Lý luận phải thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, để tự kiểm tra trong thực tiễn. IV. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất lý luận và thực tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, người tổ chức sáng lập, rèn luyện Đảng ta. Không chỉ là nhà tổ chức thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là nhà tư tưởng vĩ đại. Cùng với những di sản vô giá mà Người đã để lại cho dân tộc ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tư tưởng của Người còn mãi mãi soi đường cho Đảng và nhân dân vững bước tiến vào thế kỷ XXI, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiến dâng cả cuộc đời và sự nghiệp của mình cho dân tộc và nhân loại. Con người, cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người là một chỉnh Trang 6

thể thống nhất, ở đó có mối liên hệ hữu cơ không thể tách rời giữa tư tưởng và hành động, giữa lý luận và thực tiễn, trong suy nghĩ và cách ứng xử của Người. Mục đích học tập, nghiên cứu lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là để phục vụ cho hoạt động cách mạng, để tổ chức hoạt động thực tiễn. Vì vậy, các bài nói, bài viết của Người đều rất mộc mạc, giản dị, gần gũi với mọi tầng lớp nhân dân để cho nhân dân dễ hiểu và làm theo. Khi đề cập tới lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày các vấn đề lý luận không trừu tượng mà rất thực tiễn, lý luận thấm sâu vào thực tiễn, biến thành tư tưởng để chỉ đạo hành động cách mạng bằng năng lực tư duy khoa học độc lập, sáng tạo, linh hoạt và vô cùng sâu sắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh: trong hoạt động thực tiễn, bất cứ làm việc gì muốn thành công phải có lý luận dẫn đường, công tác lý luận tư tưởng luôn có vai trò quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Người cho rằng: "Cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu"; "Đảng mà không có chủ nghĩa, cũng như người không...


Similar Free PDFs