Tiểu luận Triết học 1 - Nothing PDF

Title Tiểu luận Triết học 1 - Nothing
Course Triết học Mác Lênin
Institution Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Pages 17
File Size 266.9 KB
File Type PDF
Total Downloads 24
Total Views 621

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘIMục lục................................................................................ TrangLời nói đầu............................................................................ Mục lục................................................................................ ...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌCBÁCH KHOAHÀNỘI

Mục lục Trang Mục lục................................................................................1 Lời nói đầu............................................................................2 Nội dung...............................................................................3 Phần 1- Các phép biện chứng trước triết học Mác..........................3 1.1 Phép biện chứng thời cổ đại....................................................3 1.1.1 Triết học Ấn Độ cổ đại..................................................3 1.1.2 Triết học Trung hoa cổ đại.......................................4 1.1.3 Triết học Hi Lạp cổ đại...........................................5 1.2 Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII............................7 1. 3 Phép biện chứng cổ điển Đức................................................8 1.3.1 Triết học Kant..............................................................9 1.3.2 Triết học Hegel ................................................... 9 1.3.3 Triết học Feuerbach.............................................. 9 Phần 2- Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác – xít.....10 2.1 Điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề về lý luận và khoa học tự nhiên cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật...................................10 2.2 Nội dung chính của phép biện chứng duy vật..........................11 Phần 3- Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay..................................................13 Kết luận..............................................................................16

1

Lời nói đầu Biện chứng và siêu hình là hai phương pháp tư duy trái ngược nhau trong triết học. Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái đứng im, không vận động, tách rời cô lập và tách biệt nhau. Cách xem xét cho chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của sự vật hiện tượng ở trạng thái đứng im tương đối, nhưng nếu tuyệt đối hoá phương pháp này sẽ dẫn đến sai lầm phủ nhận sự phát triển, không nhận thấy mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Trong khi đó trái lại, phương pháp biện chứng là: là phương pháp xem xét những sự vật hiện tượng và những phản ánh của chúng vào tư duy, chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại của chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng. Trong lịch sử triết học có những thời gian, tư duy siêu hình chiếm ưu thế so với tư duy biện chứng. Nhưng xét trong toàn bộ lịch sử triết học, thì phép biện chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần xã hội. Phép biện chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Mác - xít của triết học Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đánh giá cao phép biện chứng, nhất là phép biện chứng duy vật, coi đó là một công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh với thuyết không thể biết, tư duy siêu hình, củng cố niềm tin vào sức mạnh và khả năng của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. Việc nghiên cứu lịch sử phát triển của phép biện chứng sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn bản chất của phép biện chứng và sự phát triển của tư duy biện chứng của nhân loại. Xuất phát từ mục đích đó, tôi chọn đề tài tiểu luận về: lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học, để nghiên cứu.

2

Nội dung Phần 1- Các phép biện chứng trước triết học Mác 1.1 Phép biện chứng thời cổ đại Phép biện chứng thời cổ đại là phép biện chứng tự phát, ngây thơ và mang tính trực quan được hình thành trên cơ sở những quan sát tự nhiên, xã hội hoặc là kinh nghiệm của bản thân. Trung tâm lớn của triết học thời bấy giờ là triết học trung hoa cổ đại. Do đặc điểm văn hoá cũng như hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên sự thể hiện tư tưởng biện chứng. Trong học thuyết triết học cũng có những đặc điểm. Không giống nhau, nhưng nói chung cả 3 nên triết học lớn đều có những đặc điểm nêu trên.

1.1.1Triết học ấn đô  cổ đại Đầu tiên phải nói đến là nền triết học Ấn Độ cổ đại. Đây là hệ thống triết học có sự đan xen hoà đồng giữa triết học và tôn giáo và giữa các trường phái khác nhau. Các tư tưởng triết học được thể hiện dưới hình thức là một tôn giáo. Theo cách phân chia truyền thống triết học Ấn Độ cổ đại có 9 trường phái, trong đó có 6 trường phái là chính thống và 3 trường phái phi chính thống. Trong tất cả các trường phái đó thì trường phái đạo phật là có học thuyết mang tính duy vật biện chứng sâu sắc tiêu biểu của nền triết học Ấn Độ cổ đại. Phật giáo hình thành từ thế kỷ VI trước công nguyên do Tất Đạt Đa tên hiệu là thích ca Mẫu Ni sáng tạo. Phật giáo cho rằng vạn vật trong thế giới không do một đấng thần linh nào sáng tạo ra mà được tạo ra từ hai nguyên tố là sắc và danh. Trong đó "danh" bao gồm tân và thức, còn "sắc" bao gồm 4 đại là đại địa, đại thuỷ, đại hoả, đại phong. Chính nhờ từ trường này mà phật giáo được coi là tôn giáo duy vật duy nhất chống lại các tôn giáo thần học đương thời. Đồng thời phật giáo đưa ra tư tưởng " vô ngã", "vô biến" nghĩa là không có cái gì là trường tồn bất biến, là vĩnh hằng, không có cái gì tồn tại biệt lập, mà nó tồn tại trong một mối liên hệ. Đây là tư tưởng biện chứng sâu sắc chống lại đạo Bà La môn về sự tồn tại của cái tôi bất biến "vô thường". Biến đổi ở đây là sự biến đổi 3

của vạn vật theo chu kỳ: sinh - trụ - di - diệt đối với sinh vật và thành - trụ - hoại - diệt đối với con người. Phật giáo cho rằng sự tương tác giữa 2 mặt đối lập nhân giả hay nhân duyên chính là động lực làm cho thế giới vận động chứ không phải là một thế lực siêu nhân nào đó nằm ngoài con người, thế giới là vòng nhân quả vô cùng vô tận. Nói khác một sự vật hiện tượng tồn tại được là nhờ hội tụ đủ nhân duyên. Tuy đạo phật đã có những bước phát triển lớn vì biện chứng nhưng nó vẫn còn mang tính vô thần không triệt để, bi quan.

1.1.2 Triết học Trung Hoa cổ đại Triết học trung hoa cổ đại là một nền triết học lớn của nhân loại có tới 103 trường phái triết học lớn nhỏ. Do những đặc điểm của hoàn cảnh lịch sử của cơ cực đạo đức suy đồi nên triết học trung hoa chỉ tập trung vào việc giải quyết các vấn đề về chính trị - xã hội, những tư tưởng biện chứng thời này rất ít và chỉ xuất hiện khi các nhà triết học giải những vấn đề về vũ trụ quan. Học thuyết triết học mang tư tưởng biện chứng sâu sắc của triết học trung hoa: học thuyết âm - dương. Đây là học thuyết triết học được phát triển trên cơ sở một bộ sách có tên là kinh dịch. Nguyên lý triết học cơ bản nhất là nhìn nhận mọi tồn tại không trong tính đồng nhất tuyệt đối, mà cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập đó là âm và dương. Âm dương không loại trừ, không biệt lập, mà bao hàm lẫn nhau, liên hệ tương tác lẫn nhau. Điều này thể hiện rất rõ trong kinh dịch cũng như tương tương thôi nhu sinh biến hái: "Sinh sinh chi vi dịch". Học thuyết này có hai quan điểm thể hiện sâu sắc tư tưởng biện chứng. Một là sự tương tác lẫn nhau giữa âm và dương, giữa các mặt đối lập làm cho vũ trụ biến đổi không ngừng; hai là học thuyết này cũng cho rằng chu trình vận động, biến dịch của vạn vật trong vũ trụ diễn ra theo nguyên lý phân đôi cái thống nhất như thái cực (thể thống nhất) phân đôi thành lưỡng nghi (âm dương). Sau đó âm dương lại tiến hành phân thành tự tượng là thái âm - thiếu, âm, thái dương - thiếu dương, từ tượng lại sinh ra bát quái, và trì đã bát quái sinh ra vạn vật. Tuy vậy, học thuyết âm dương vẫn còn những hạn chế. 4

Một là, học thuyết âm - dương phủ nhận sự phát triển biện chứng theo hướng đi lên vì học thuyết âm dương cho rằng sự vận động của vạn vật diễn ra theo chu kỳ lặp đi lặp lại và được đảm bảo bởi nguyên tắc cân bằng âm - dương cho rằng sự vận động của các hiện tượng chỉ dừng lại khi đạt được trạng thái cân bằng âm dương. Hai là, trong học thuyết âm - dương còn nhiều yếu tố duy tân thần bí như quan điểm "thiên tôn địa lý" cho rằng trật tự sang hèn trong xã hội bắt nguồn từ trật tự của trời đất, học đem trật tự của xã hội gán cho giới tự nhiên, rõ lại dựng hình thức bịa đặt để chứng minh cho sự hợp lý vĩnh viễn của chế độ đẳng cấp xã hội. Điều này phản khoa học. Tóm lại, học thuyết âm dương đã phản ánh rõ khuynh hướng duy vật và biện chứng à ra chỉ là tự phát. Nhưng thiếu số hạn chỉ của nó chỉ là do ở thời kỳ này khoa học vì tự nhiên chưa có và triết học chỉ là kết quả của quá trình khái quát hoá những kinh nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân dân trung hoa.

1.1.3 Triết học Hy Lạp cổ đại Trong thời cổ đại thì nền triết học Hy lạp là nền triết học có những phát hiện mới đối với phép biện chứng. Chính thời kỳ này của triết học Hy lạp thuật ngữ "biện chứng" ra đời. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ Hi lạp cổ đại là những thành tựu to lớn trong khoa học tự nhiên, văn hoá, nghệ thuật. Đặc biệt là khoa học tự nhiên như thiên văn học, vật lý cổ điển, toán học đã làm cơ sở cho sự phát triển và là nền tảng cho sự phát triển của triết học phương tây sau này. Nhà triết học điển hình cho nền triết học Hi lạp có tư tưởng biện chứng là: Heraclit (540-980 TCN). Theo sự đánh giá của Mác, Lênin thì Heraclit là người đã sáng tạo ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật. Phép biện chứng của ông chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học mà hai như các luận điểm quan trọng của ông về phép biện chứng được đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Tư tưởng biện chứng của Heraclic thể thiếu trong 3 vấn đề sau: Một là quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo ông thì khiông có sự vật, hiện tượng nào của thế giới đứng yên tuyệt đối, mà trái lại tất 5

cả đều trong trạng thái biến đổi về chuyển hoá không ngừng. Tư tưởng này được thể hiện rõ trong hai câu danh ngôn: “Chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông vì nước mới không ngừng chảy." và "Ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mốt." (Heraclit - giáo trình triết học Mác-Lênin - NXB CTQG) Heraclit lại đưa ra quan điểm là lửa chính là bản nguyên của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến nhất của tất cả mọi sự vật hiện tượng. Đồng thời cũng chính là gốc của vận động, tất cả các dạng khác nhau của vật chất chỉ là trạng thái chuyển hoá của lửa mà thôi. Đây là một hạn chế của Heraclit và bản chất của vật chất và vận động nhưng cũng chính nhờ quan điểm ấy mà Heraclit đã nhấn mạnh được tính vĩnh viễn và bất diệt của thế giới. Hai là, Heraclit nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong phỏng đoán về vai trò của những mặt đối lập trong biến đổi phổ biến của tự nhiên về "sự trao đổi của những mặt đối lập", về “sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập ”. Điều này thể hiện rõ qua câu nói của ông: "cùng một cái ở trong chúng ta sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già vì rằng cái này biến đổi thành cái kia và ngược lại, cái kia và ngược lại, cái kia biến đổi thành cái này." Heraclit cũng đã có những phỏng đoán đúng về sự đấu tranh và thống nhất của những mặt đối lập. Đánh giá về quan điểm thứ hai của Heraclit Lênin đã từng viết "phân đôi cái thống nhất của phép biện chứng". Điều này chúng ta đã thấy xuất hiện ngay từ nhà biện chứng Heraclit. Ba là theo Heraclit thì sự vận động phát biến không ngừng của thế giới do quy luật khách quan quy định, quy luật khách quan là trật tự khách quan là mọi cái đang diễn ra trong vũ trị, quy luật chủ quan là từ ngữ học thuyết của con người quy luật chủ quan phải phù hợp với quy luật khách quan. Người nào càng tiếp cận được quy luật khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu. Lý luận nhận thức của Heraclit mang tính biện chứng và duy vật sơ khai như cơ bản là đúng đắn. Trong suốt thời kỳ cổ đại ta thấy rằng không có hệ thống triết học nào có tư tưởng biến chứng sau như của Heraclit. Do vậy mà tư tưởng triết học của ông được nhà biện chứng cơ Điêu Đức và các nhà sáng lập nên chủ nghĩa Mác-Lênin 6

đánh giá cao, như Các Mác và Ph Ăng ghen đã nói "Quan niệm về thế giới mới của nguyên thuỷ, ngây thơ nhưng căn bản đó cũng là quan điệm của các nhà Hy Lạp thời cổ và người trên diễn đạt được rằng quan niệm ấy là Heraclit. Các nhà triết học sau Heraclit tiếp tục kế thừa tư tưởng biện chứng của ông và phát triển nó nhưng thực sự chưa giải quyết được vấn đề bản chất của sự vận động và của vận động và của vật chất. Trong học thuyết về nguyên tử của mình, Đêmôcrit (Democritos, 460 - 370 TCN) đã kế thừa quan điểm của Heraclit về vận động. Ông cho rằng vận động của nguyên tử là vĩnh cửu và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử là ở bản thân nguyên tử, ở nội lực bên trong. Ông cho rằng còn khoảng trống hay còn "chân không" trong nguyên tử là điều kiện vận động của nó. Tuy nhiên Đêmôcrit đã không lý giải được nguồn gốc của vận động. Sau Đêmôcrit là Arixtốt (Aristoteles, 384 - 322 TCN) ông cho rằngvận động gắn liền với các vật thể với mọi sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định vận động là không thể bị tiêu diệt "Đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận động". Arixtốt là người đầu tiên đã hệ thống hoá các hình thức vận động thành 6 dạng: Phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí . Tuy nhiên qiam điểm của ông lại hơi lấn sang trường phái duy tâm khi cho rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi vận động. Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại về căn bản là đúng nhưng chủ yếu mới dựa trên những phỏng đoán những trực kiến thiên tài. Phép biện chứng tự pháp thời cổ đại đã nhìn thấy bức tranh chung của thế giới trong sự tác động của nó. Vì vậy không thể tránh khỏi bị phủ định bởi các nền triết học về sau.

1.2 Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII), sự trưởng thành của tư tưởng biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc đáo. Phép biện chứng trong thời kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị của tư duy siêu hình. Sau đêm trường Trung cổ, triết học là thứ triết học kinh viện giáo điều gắn với đạo Thiên chúa. Đến thời kỳ Phục hưng, triết học thời kỳ này đã khôi phục 7

lại những tư tưởng duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính phiếm thần, duy vật xen lẫn duy tâm. Tuy nhiên phép biện chứng thời kỳ này vẫn có bước phát triển như tư tưởng về "sự phù hợp của các mặt đối lập" của Gioocdanơ Brunô (1548 -1600). Theo G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận động, kể từ các hạt vật chất nhỏ nhất - nguyên tử đến vô số thế giới của vũ trụ vô tận, cái này tiêu diệt cái kia ra đời. Nếu không theo nguyên tắc "các mặt đối lập phù hợp với nhau" thì dù là nhà toán học, nhà vật lý, cả nhà triết học cũng không làm việc được. Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là Ph.Bêcơn (1561 - 1626). Ph.Bêcơn khẳnh định vật chất không tách rời vận động, nhận thức bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Ông đã tiến hành phân vận động thành 19 loại. Tuy nhiên tính chất siêu hình của ông thể hiện: Ông quy mọi loại vận động về vận động cơ học. Song cống hiến của ông là ở chỗ coi đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận động là đặc tính cố hữu của vật chất, ông là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới. Trong thời kỳ cận đại, khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu mổ xẻ phân tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên cứu. Những phương pháp đó đã tạo ra thói quen nghiên cứu xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời và bất biến. Từ khi Ph.Bêcơn và Lốccơ đem phương pháp trong khoa học tự nhiên áp dụng vào triết học thì phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong triết học. Phương pháp siêu hình đó đóng một vai trò tích cực nhất định trong quá trình nhận thức giới tự nhiên, phương pháp đó chỉ thích ứng với trình độ sưu tập, mô tả giới tự nhiên. Do đó khi khoa học chuyển sang nghiên cứu các quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng thì nó bộc lộ rõ những hạn chế. Vì vậy nó không tránh khỏi bị phủ định bởi phép biện chứng của triết học cổ điển Đức với đỉnh cao là phép biện chứng Hêghen.

1.3. Phép biện chứng cổ điển Đức Vào thế kỷ XVIII, cả châu Âu đang sôi sục trong những ngày của thời kỳ Khai sáng. Lúc này, giai cấp tư sản đang có những thắng thế nhất định trước giai cấp phong kiến. Ở Anh, cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ với tốc độ đáng kinh ngạc. Ở Pháp, cuộc Cách mạng tư sản năm 1789 nổ ra, báo 8

hiệu hồi chuông khai tử của giai cấp phong kiến. Thế những, khác với hai ông lớn của châu Âu lúc đó, nước Đức vẫn còn duy trì chế độ phong kiến. Nước Đức của thế kỷ XVIII vẫn bị chia rẽ thành nhiều vương quốc khác nhau, tổng cộng là 360 chính quyền như thế. Rõ ràng nếu so sánh thì nước Đức lúc đó còn xa mới bắt kịp hai ông lớn kia. Friedrich Engels đã coi thời kỳ này là "thời kỳ nhục nhã về mặt chính trị và xã hội". Thậm chí, ông còn nói rằng: “ Mọi thứ đều nát bét và lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn tới một tia hy vọng chuyển biến tốt lên vì dân tộc, thậm chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của một chế độ đã chết rồi . ” Nhưng, cũng theo Engels, đây là thời kỳ nở rộ nhiều nhân tài, những người luôn phê phán sự thối nát của chế độ phong kiến đương thời. Đó là một thời kỳ đầy tự hào trong lịch sử văn học, tư tưởng của Đức. Và như thế một trào lưu triết học đã ra đời, triết học cổ điển Đức.

1.3.1 Triết học Kant Immanuel Kant (1724-1804) là một trong những triết học gia quan trọng nhất của triết học cổ điển Đức, của thời kỳ Khai sáng và của lịch sử thế giới. Ông là người đã có định nghĩa đầy đủ về vật tự thể, một trong những khái niệm triết học nổi tiếng nhất. Ông là một trong những người đi đầu về chủ nghĩa duy tâm, bản chất của triết học cổ điển Đức.

1.3.2 Triết học Hegel Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) cũng là một trong những nhà triết học lớn nhất của Đức. Ông là người đã phát triển phưng pháp luận biện chứng, một trong những yếu tố quan trọng của chủ nghĩa Marx-Lenin sau này. Tuy nhiên, ông lại sử dụng thế giới quan duy tâm để giải quyết câu hỏi: “Khởi thủy của vũ trụ là gì?”.

1.3.3 Triết học Feuerbach Ludwig Andreas Feuerbach (1804-1872) là nhà triết học lớn cuối cùng của triết học cổ điển Đức. Ông đã vượt qua cái bóng của những người đàn anh, những người khổng lồ của triết học Đức như Kant và Hegel để đến với thế giới quan duy vật - một trong các yếu tố quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx-Lenin 9

sau này. Tuy nhiên, ông lại cho rằng lịch sử loài người không hề phát triển mà chỉ là bức tranh đầy màu sắc được tạo ra bởi sự khác nhau về tôn giáo. Rõ rằng qua quan điểm này, Feuerbach đã nhìn nhận bằng phương pháp luận siêu hình.

Phần 2- Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác – xít Đây là phương pháp nhận thức khoa học do Mác và Ăng- ghen sáng tạo, về sau do Lê nin và Xta – lin phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Phép biện chứng duy vật là khoa học về các quy luật chung nhất của sự phát triển của tự nhiên, của xã hội và của tư duy, là một bộ phận khăng khít của triết học mác – xít, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và là kim chỉ nam cho hành động cách mạng của đảng vô sản.

2.1 Điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề về lý luận và khoa học tự nhiên cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển mạnh mẽ này đã chứng minh phương thức sản xuất tư bản ưu việt hơn hẳn phương thức sản xuất phong kiến. Song, những mâu thuẫn giai cấp xã hội vốn có – nhất là mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản đã tạo nên các cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Các cuộc đấu tranh này đã thu hút được sự chú ý của tầng lớp trí thức tư sản tiến bộ, trước hết là C.Mác và Ph.Ănghen tới vấn đề nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp. Rõ ràng các cuộc đấu tranh này là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng đã có những tiền đề xã hội – giai cấp và những điều kiện nhất định để xuất hiện phép biện chứng duy vật. Vào thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt tới những thành tựu đỉnh cao trong khoa học tự nhiên. Khoa học tự nhiên đã có những bước phát triển vượt bậc, chuyển từ trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận, đặc biệt là xuất hiện nhiều phát minh khoa học vạch thời đại, có ảnh hưởng to lớn đến sự ra đời của triết học Mác. Học thuyết về bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, Thuyết tế bào và Thuyết tiến hóa đã làm thay đổi quan niệm siêu hình về thế gi...


Similar Free PDFs