[LUẬT NGÂN HÀNG - Clcqtl] BÀI TẬP GIỮA KỲ PDF

Title [LUẬT NGÂN HÀNG - Clcqtl] BÀI TẬP GIỮA KỲ
Author Ashley Animus
Course Luật Doanh nghiệp
Institution Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 17
File Size 418.9 KB
File Type PDF
Total Downloads 173
Total Views 600

Summary

BÀI TẬP GIỮA KỲBỘ MÔN LUẬT NGÂN HÀNGDanh sách nhóm 7HỌ VÀ TÊN MSSV1. Hoàng Ngọc Mai 17511010300732. Lâm Phối Mẫn 17511010300743. Trần Bùi Thị Thủy Tiên 1751101030160BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TPỒ CHÍ MINH----------------------------------LỚP: CLC-QTLGVHD: Trương Thị Tuyết MinhMỤC LỤC ...


Description

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH ---------------------------------LỚP: CLC-QTL42 GVHD: Trương Thị Tuyết Minh

BÀI TẬP GIỮA KỲ BỘ MÔN LUẬT NGÂN HÀNG Danh sách nhóm 7 HỌ VÀ TÊN

MSSV

1. Hoàng Ngọc Mai

1751101030073

2. Lâm Phối Mẫn

1751101030074

3. Trần Bùi Thị Thủy Tiên

1751101030160

1

MỤC LỤC 1.

Bản án (dịch) .......................................................................................................................... 3

2. Một số vấn đề pháp lý rút ra từ bản án dưới góc độ Luật Thương mại thống nhất (UCC) ........................................................................................................................................... 10

3.

2.1.

Vấn đề ............................................................................................................................ 10

2.2.

Quy định pháp luật ......................................................................................................... 10

2.3.

Phân tích ......................................................................................................................... 12

2.4.

Kết luận .......................................................................................................................... 13

Một số vấn đề pháp lý rút ra từ bản án dưới góc độ pháp luật Việt Nam ..................... 14 3.1.

Về quyền được thu hồi tài sản để xử lý nợ của bên bán................................................. 14

3.2. Về mối quan hệ của biện pháp bảo lãnh với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác: ........................................................................................................................................ 15 4.

Kết luận ................................................................................................................................ 17

2

1.

Bản án (dịch)

AAR đã bán một động cơ máy bay cho công ty của Charles Edwards (Kiwi International) theo gói trả góp, yêu cầu Edwards phải ký một giấy bảo lãnh cá nhân "tuyệt đối" và "vô điều kiện" cho khoản vay. Giá mua là 1.325.000 USD. Sau khi thanh toán khoảng 325.000 USD, Kiwi đã trễ một lần thanh toán, AAR đã đẩy nhanh khoản nợ và kiện Edwards để thu nốt 1 triệu USD còn lại trong hợp đồng. Sau đó, AAR cũng đã lấy lại động cơ, rồi tự đấu giá và "mua" lại động cơ với giá 250.000 USD - thấp hơn 750.000 USD so với giá trị ước tính - và cuộc đấu giá chỉ có AAR tham gia. Do đó, khi Tòa án quận ra phán quyết tóm tắt, AAR đã nhận được cả phần đền bù thiệt hại 1 triệu USD cộng với động cơ, trị giá gần tương đương. Vì vậy, về bản chất, AAR đã nhận được gấp đôi những gì muốn được nhận. Edwards cảm thấy có điều gì đó không ổn với kết quả này nên đã kháng cáo. Edwards là chủ tịch và cổ đông chính của Kiwi. Năm 1998 AAR Aircraft & Engine Group, Inc., (một công ty con của American Airlines) cùng với Kiwi đã ký kết một hợp đồng mua bán trả góp hàng tháng trong 3 năm cho động cơ. Edwards đã ký giấy bảo lãnh cá nhân do AAR đã soạn thảo, với điều khoản là anh ta đảm bảo "tuyệt đối và vô điều kiện" khoản nợ của Kiwi . Sau khi Kiwi vỡ nợ và nộp thủ tục phá sản vào tháng 3 năm 1999, AAR đã đẩy nhanh khoản nợ và yêu cầu Edwards thanh toán. Khi Edwards không trả tiền, AAR đã đệ đơn kiện và chuyển sang phán quyết tóm tắt. Trong khi chờ phán quyết của tòa án quận, AAR đã lấy lại động cơ và tổ chức một cuộc đấu giá mà AAR là đơn vị trả giá duy nhất, mua được động cơ với giá 250.000 USD. Một ngày sau khi bán, tòa án quận đã đưa ra phán quyết tóm tắt chấp nhận yêu cầu của AAR. Trong quyết định không nêu rõ số tiền thiệt hại, vì vậy AAR đã đệ trình một đơn mới để yêu cầu số tiền thiệt hại cần bồi thường. Đơn này đã yêu cầu giá trị đền bù là một số tiền được giảm đi 250.000 USD mà AAR đã "thu hồi" tại cuộc đấu giá. Tòa án quận đã đưa ra phán quyết chỉ dưới một triệu USD. Căn cứ vào giấy bảo lãnh, AAR cũng yêu cầu được nhận các khoản phí và chi phí luật sư. Edwards kháng cáo, cho rằng việc bán động cơ là không hợp lý về mặt thương mại cả về giá cả và phương thức. Theo Edwards, động cơ trị giá 1.075.000 USD. Ông lập luận rằng việc bán đấu giá động cơ không hợp lý về mặt thương mại vì nó ngụ ý rằng động cơ bị lỗi. Ngoài ra, Edwards lưu ý rằng AAR đã quảng cáo cuộc đấu giá như một "cuộc mua bán của 3

bên nhận bảo lãnh", biểu thị đang có các vấn đề pháp lý và có thể ngăn cản những người mua tiềm năng tham gia cuộc đấu giá. Edwards lập luận rằng cách hợp lý về mặt thương mại để bán động cơ máy bay là thông qua các chuyên mục quảng cáo trên các tạp chí thương mại hàng không. Chúng ta sẽ xem xét lại một bản án tóm tắt của tòa án quận. Xem vụ kiện Denius và Dunlap, 209 F.3d 944, 949 (7th Cir. 2000). Khi làm như vậy, chúng ta xem xét tất cả các bằng chứng có lợi nhất cho bên bị kiện và rút ra tất cả các suy luận hợp lý có lợi cho bên đó. Xem trích vụ kiện Anderson v. Liberty Lobby, Inc., 477 U.S. 242, 255 (1986). Ý nghĩa của một thỏa thuận bảo đảm là một vấn đề pháp lý mà chúng ta sẽ phải xem xét lại một lần nữa. Xem vụ kiện Exchange Nat'l Bank of Chicago kiện Bergman, 153 Ill. App. 3d 470, 472 (Quận 1 năm 1987); vụ kiện Chemtool, Inc. v. Lubrication Tech., Inc., 148 F.3d 742, 744-45 (7th Cir. 1998). Sự bảo lãnh đương nhiên là một hợp đồng, vì vậy chúng ta áp dụng các quy tắc chung về giải thích hợp đồng cho vụ tranh chấp. Xem McLean County Bank kiện Brokaw, 119 Ill. 2d 405 , 412 (1988). Ở đây, văn bản bảo bảo lãnh nêu rõ, "những người ký tên dưới đây đảm bảo tuyệt đối và vô điều kiện cho Chủ nợ về việc thanh toán đầy đủ và nhanh chóng khi đến hạn, dù là khi đáo hạn hay sớm hơn vì lý do đẩy nhanh hoặc bằng cách khác, đối với các khoản nợ, trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý" của Kiwi. Văn bản này tiếp tục nêu rõ, "đây là một bảo đảm tuyệt đối, vô điều kiện và liên tục về việc thanh toán khoản nợ và sẽ tiếp tục có hiệu lực và ràng buộc đối với những người ký tên dưới đây cho đến khi tất cả các khoản nợ được thanh toán đầy đủ." Hợp đồng cũng quy định rằng, "chủ nợ không bắt buộc phải tìm cách đòi nợ từ “con nợ” hoặc từ các đối tượng khác hoặc từ tài sản của họ, đồng thời cũng không bắt buộc phải thi hành các hợp đồng bảo đảm, sử dụng hay thanh lý các tài sản bảo đảm của khoản nợ TRƯỚC khi khoản đảm bảo này được thi hành. " Các điều khoản này nói rõ rằng sự bảo đảm của Edwards là tuyệt đối và AAR không cần phải bán động cơ máy bay trước khi tìm kiếm sự trả nợ từ anh ta. Do đó, AAR lập luận rằng Edwards không có quyền ngăn cản khi AAR chọn bán tài sản thế chấp. Edwards phản bác rằng mình đã không từ bỏ quyền theo luật định của người bảo lãnh đối với việc bán tài sản thế chấp hợp lý về mặt thương mại, xem 810 Ill. Comp. Stat. 5/9- 504(3) (sửa đổi mục 3 khoản 504 Điều 9 Luật Thương mại thống nhất (U.C.C.)), bởi vì quyền này là không thể tước bỏ.

4

Bởi vì tòa án quận đã thực hiện quyền tài phán đa dạng nên chúng ta phải áp dụng luật của bang Illinois như Tòa án tối cao của bang Illinois đã áp dụng. Xem vụ kiện Home Valu, Inc. và Pep Boys, 213 F.3d 960, 963 (7th Cir. 2000). Tòa án Tối cao Illinois đã không quyết định trực tiếp về việc liệu người bảo lãnh có thể từ bỏ tính hợp lý thương mại hay không. Tuy nhiên, Tòa phúc thẩm Illinois lưu ý rằng người bảo lãnh có thể từ bỏ tính hợp lý thương mại. Xem vụ kiện Chemical Bank và Paul, 244 Ill.App.3d 772, 781 (Quận 1, 1993); Lincoln Park Fed. Sav. & Loan Ass'n kiện Carrane, 192 Ill. App. 3d 188, 192 (Quận 1 năm 1989). Tòa án Quận phía Bắc của Illinois Hoa Kỳ đã giải thích luật Illinois theo cách tương tự. Xem National Acceptance Co. of Am. v. Wechsler, 489 F.Supp. 642 , 647 (N.D Ill. 1980). Mặc dù có sức thuyết phục nhưng các quyết định của Tòa phúc thẩm Illinois không mang tính ràng buộc. Khi Tòa án tối cao của một Bang không đề cập đến một vấn đề nào đó thì các quyết định của Tòa án Phúc thẩm cấp trung gian của Bang đó sẽ có hiệu lực, trừ khi chúng ta có một lý do thuyết phục để nghi ngờ rằng họ đã tuyên bố không đúng luật. Xem Home Valu, 213 F.3d at 963; Green kiện JC Penney Auto Ins. Co., 806 F.2d 759, 761 (7th Cir. 1986). Ở đây, theo một số dữ kiện đã biết cho thấy rằng vụ kiện Chemical Bank và vụ kiện Lincoln Park không thể phản ánh chính xác cách Tòa án Tối cao Illinois sẽ ra phán quyết về khả năng từ bỏ tính hợp lý thương mại của người bảo lãnh. Đầu tiên, Tòa án Tối cao Illinois cho rằng người bảo lãnh là “con nợ” cho các mục đích của Điều 810 Ill. Comp. Stat. 5/9504(3). Xem Watseka First Nat'l Bank kiện Ruda, 135 Ill. 2d 140 , 158 (1990); First Galesburg Nat'l Bank & Trust Co. kiện Joannides, 103 Ill. 2d 294, 298 (năm 1984); Commercial Disc Corp kiện Bayer, 57 Ill. App. 3d 295, 299 (Quận 1, 1978); Ford Motor Credit Co. v. Solway, 825 F.2d 1213, 1217 (7th Cir. 1987). Thứ hai, quy chế của tiểu bang cấm “con nợ” từ bỏ tính hợp lý thương mại. Xem phần 810 Ill. Comp. Stat. 5/9-501(3) (sửa đổi mục 3 khoản 501 Điều 9 Luật Thương mại thống nhất U.C.C.). Kết hợp hai nguyên tắc này, theo đó Tòa án Tối cao Illinois sẽ cấm người bảo lãnh từ bỏ tính hợp lý thương mại. Thứ ba, các phiên tòa phúc thẩm chỉ thảo luận về tính hợp lý thương mại một cách sơ lược. Chemical Bank chỉ đơn thuần lưu ý trong lời tuyên bố của Lincoln Park rằng những người bảo lãnh có thể từ bỏ tính hợp lý thương mại. Xem vụ kiện Chemical Bank, 244 Ill. App. 3d at 781. Lincoln Park tự công bố việc nắm giữ mà không đề cập đến mục 3 khoản 501 Điều 9 đối với việc từ bỏ tính hợp lý thương mại. Xem đoạn 192-193 vụ kiện Lincoln Park, 5

192 Ill. App. 3d. Do đó, sự phân tích sơ lược đã giúp cho bên Chemical Bank và bên Lincoln Park, và dường như các tiền lệ của Tòa án Tối cao Illinois cũng mâu thuẫn với kết luận của họ nên chúng ta nhận thấy vụ Chemical Bank và Lincoln Park không ảnh hưởng quan trọng tới kết quả phán quyết. Mặc dù Quận Bắc của bang Illinois đã tuyên trong vụ Wechsler rằng người bảo lãnh có thể từ bỏ tính hợp lý thương mại, nhưng điều này dựa trên chính sách hơn là dựa trên luật của Illinois. Tòa án lưu ý rằng người bảo lãnh thường không sở hữu tài sản thế chấp, và do đó có lợi ích thấp hơn so với “con nợ”. Tham khảo đoạn 647-648 của 489 F. Supp. Nó cũng lưu ý rằng các bảo lãnh tạo điều kiện cho các khoản vay bằng cách cung cấp cho người cho vay các nguồn tiền sẵn sàng để thu hồi nếu “con nợ” vi phạm. Tham khảo đoạn 648 vụ Wechsler, tuy nhiên, đặc biệt lưu ý rằng Illinois vẫn có rất ít tiền lệ về những vấn đề này. Tham khảo id. tại 647. Vì không có tuyên bố rõ ràng nào trong luật Illinois ủng hộ Wechsler và hệ quả của nó, tham khảo bản án của Sanwa Bus. Credit Corp v. Harris, số 91 C 0204, 1991 WL 156116, tại * 5-6 (ND Ill. 6 tháng 8, 1991); Hoa Kỳ kiện Crispen, 622 F. Bổ sung. 75, 79 (ND Ill. 1985); Exchange Nat'l Bank of Chicago kiện Brown, số 84 C 10801, 1985 WL 2274, tại * 5 (ND Ill. 9 tháng 8, 1985), chúng ta thấy lập luận của họ không thuyết phục. Thật vậy, Quận Bắc của Illinois đã bày tỏ sự nghi ngờ một cách rõ ràng đối với phán quyết của Wechsler trong vụ Commercial Discovery Corp. kiện King, 515 F. Bổ sung. 988 , 992 (ND Ill. 1981), đồng thời nhấn mạnh rằng phán quyết của Wechsler đã dựa trên một cách hiểu chưa rõ ràng trong vụ Bayer, 577 Ill. App. 3d 295. King cũng tuyên rằng mục 3 khoản 501 Điều 9 cấm người bảo lãnh từ bỏ thông báo về việc bán tài sản thế chấp. Tham khảo id. tại 990, 14 Ill.Dec. 647, 372 N.E.2d 926. Phân tích của King rất thuyết phục về tính hợp lý thương mại bởi vì cùng một điều khoản luật định tạo ra cả quyền đó và quyền được thông báo. Xem phần 810 Ill. Comp. Stat. 5/9-504(3). Tòa án Tối cao Illinois cũng cho rằng những người bảo lãnh không được từ bỏ quyền được thông báo. Xem Watseka, 135 Ill.2d at 158, 142 Ill.Dec. 184, 552 N.E.2d 775; Joannides, 103 Ill.2d at 298, 82 Ill.Dec. 646, 469 N.E.2d 180. Bởi vì các quyền đối với tính hợp lý thương mại và thông báo có liên quan mật thiết với nhau, chúng ta nghĩ rằng Tòa án tối cao Illinois cho rằng những người bảo lãnh không được từ bỏ quyền về tính hợp lý thương mại. Tuy nhiên, AAR lập luận rằng quyền được thông báo và tính hợp lý về mặt thương mại điều chỉnh các chính sách khác nhau. Thông báo cho phép người bảo lãnh “lên tiếng” về 6

những vấn đề liên quan tới thủ tục trước buổi bán tài sản thế chấp. Mặt khác, các khiếu nại về tính hợp lý thương mại nhất thiết phải phát sinh sau khi bán và có thể gây gánh nặng cho các chủ nợ trong việc xử lý tài sản thế chấp. Mặc dù chúng ta hiểu mối quan tâm này, sự khác biệt mà AAR vạch ra giữa quyền được thông báo và tính hợp lý thương mại là không hợp lý. Chính sách cơ bản về quyền được thông báo, như AAR đã thừa nhận khi tranh luận bằng miệng, là cho phép “con nợ” hoặc người bảo lãnh ảnh hưởng đến việc bán tài sản thế chấp bằng cách thu hút người mua hoặc bằng những cách khác. Mặc dù AAR lập luận ngược lại, mục đích của thông báo, do đó, là để đảm bảo tính hợp lý về mặt thương mại. Thật phi logic khi nói rằng luật của Illinois bảo vệ quyền được thông báo một cách quá cẩn thận đến mức nó cấm người nợ và người bảo lãnh từ bỏ nó, nhưng lại cho phép họ từ bỏ quyền cơ bản về tính hợp lý thương mại. Do đó, chúng ta dựa trên luật lệ của Tòa án Tối cao Illinois trong các bối cảnh khác có liên quan chặt chẽ và xác định rằng người bảo lãnh không được từ bỏ tính hợp lý thương mại. Ngoài ra, chúng ta lưu ý rằng Tòa án Tối cao Illinois có xu hướng tuân theo quy tắc chủ đạo về các vấn đề của Luật Thương mại thống nhất - UCC. Tham khảo Joannides, 103 Ill.2d at 301, 82 Ill.Dec. 646, 469 N.E.2d 180 (tuân theo quy tắc chủ đạo trong việc áp dụng phương pháp tiếp cận "giả định có thể bác bỏ" như là biện pháp khắc phục cho việc thông báo thiếu tài sản thế chấp); Northrop Corp kiện Litronic Indus., 29 F.3d 1173, 1178 (7th Cir. 1994) (lưu ý rằng các tòa án Illinois có xu hướng tuân theo quy tắc chủ đạo về các vấn đề của UCC). Bởi vì chúng ta khuyến khích áp dụng nhất quán trên toàn quốc Luật thương mại thống nhất, khi một tiểu bang có xu hướng tuân theo các quy tắc thông dụng cho các vấn đề của Luật thương mại thống nhất, chúng ta cho rằng nó cũng sẽ áp dụng quy tắc thông dụng cho vấn đề hiện tại. Tham khảo Zemco Mfg., Inc. kiện Navistar Int'l Transp. Corp., 186 F.3d 815, 819 (7th Cir. 1999). Do đó, vì phần lớn các cấp xét xử đã xem xét vấn đề cấm người bảo lãnh từ bỏ quyền hợp lý thương mại quy định tại mục 3 khoản 504 Điều 9 Luật Thương mại thống nhất nên chúng ta kết luận rằng Illinois cũng sẽ tuân theo.1 . Vì vậy, sự từ bỏ có chủ đích của Edwards đối với hợp lý thương mại là không hợp lệ 2 . Kết quả này ngăn ngừa lãng phí kinh tế và làm giàu bất chính bởi vì các chủ nợ tin rằng họ đã được miễn trừ không có động cơ để hành xử theo cách hợp lý về mặt thương mại. Và kết quả vô lý ở đây - một khoản thu nhập lớn đối với AAR - cho thấy rằng họ không có động cơ để làm gì khác hơn là làm giàu cho chính mình trong thương vụ này.

7

Mặc dù chúng ta đã xem xét trong các bối cảnh khác mà luật Illinois cho phép sự miễn trừ tuyệt đối được phản bác tất cả các biện pháp bảo vệ của người bảo lãnh, những trường hợp đó không liên quan đến mục 3 khoản 501 Điều 9 Luật Thương mại thống nhất về sự nghiêm cấm rõ ràng của đối với việc từ bỏ tính hợp lý thương mại. Xem các vụ kiện FDIC và Rayman, 117 F.3d 994, 998 (7th Cir. 1997); Hoa Kỳ và Shirman, 41 FRD 368, 370 (ND Ill. 1966). Bởi vì luật của tiểu bang nghiêm cấm việc từ bỏ tính hợp lý thương mại, đặc biệt là những biện pháp do chính các chủ nợ soạn thảo, nên lập luận ấy vẫn tồn tại ngay cả khi có những biện pháp bảo đảm tuyệt đối và vô điều kiện. Cuối cùng, Edwards lập luận rằng nếu chúng ta hủy bỏ phán quyết cơ bản, chúng ta cũng nên hủy bỏ quyết định về việc thanh toán chi phí luật sư. Ngay cả khi tòa án quận nhận thấy rằng hành vi của AAR là không hợp lý về mặt thương mại, AAR vẫn có thể được hưởng phí luật sư. Điều này là bởi vì một phát hiện về sự bất hợp lý thương mại sẽ khiến Edwards chỉ có thể bác bỏ giả định rằng giá trị của động cơ bằng với số nợ. Nó không hoàn toàn ngăn cản khả năng thu hồi lại số tiền của AAR. Xem vụ kiện Munao v. Lagattuta, 294 Ill. 3d 976, 983-984 (1998); Standard Bank & Trust Co. kiện Callaghan, 177 Ill. App. 3d 973, 981-82 (1988); Ford Motor Credit Co. kiện Jackson, 126 Ill. App. 3d 124, 128 (1984). Do đó, nếu AAR vẫn có thể chứng minh rằng động cơ có giá trị nhỏ hơn số nợ còn lại, trong trường hợp đó, AAR vẫn có thể thu hồi tiền chênh lệch từ Edwards, và như vậy AAR có thể được trả lại phí luật sư. Do đó, chúng ta hủy bỏ bản án và đưa ra xét xử lại để tòa án quận có thể xác định xem việc bán động cơ của AAR có hợp lý về mặt thương mại hay không và liệu AAR có được hưởng phí luật sư hay không.

1

Xem vụ kiện giữa Tropical Jewelers, Inc. và Nationsbank, N.A., 781 So. 2d 392, 392-93 (Fla. App. 2000); vụ kiện giữa Security State Bank và Burk, 100 Wash. App. 94, 99 (2000); vụ Ngân hàng Marine Midland và CMR Indus., Inc., 559 NYS2d 892, 900 (NY App. Div. 1990); vụ kiện giữa FDIC và Wrapwell Corp., 922 F. Supp 913 , 923 (S.D.N.Y 1996) (dự đoán luật New York); vụ việc giữa Ngân hàng Trung Quốc với Chan, 937 F.2d 780, 785 (2d Cir. 1991) (dự đoán luật New York); United States kiện Contestabile, 989 F.2d 463, 464 (11 Cir. 1993) (áp dụng luật Georgia); Davis kiện Concord Commercial Corp., 209 Ga. App. 595, 598 (1993); Branan kiện Equico Lessors, Inc., 255 Ga. 718, 722 (1986); United States kiện Kelley, 890 F.2d 220, 222-23 (10 Cir. 1989) (dự đoán luật Kansas); 8

Hoa Kỳ kiện Hunter, 652 F. Bổ sung 774, 779 (D. Kan. 1986) (dự đoán luật Kansas); May kiện Ngân hàng Phụ nữ, 807 P.2d 1145 , 1150 (Colo. 1991); Cooper Inv. kiện Conger, 775 P.2d 76 , 80 (Colo. Ct. App. 1989); Shawmut Worcester County Bank kiện Miller, 398 Mass. 273, 279 (1986); Ford Motor Credit Co. v. Lototsky, 549 F. Supp. 996 , 1005 (ED Pa. 1982) (áp dụng luật Pennsylvania); United States kiện Chatlin's Dep't Store, Inc., 506 F. Supp. 108, 112 (ED Pa. 1980) (thông qua luật Pennsylvania làm quy tắc quyết định của liên bang); United States kiện Willis, 593 F.2d 247, 255 (6th Cir. 1979) (áp dụng luật liên bang); nhưng hãy xem vụ Borg-Warner Acceptance 97 N.C. App. 575, 581 (1990) (cho rằng người bảo lãnh có thể từ bỏ tính hợp lý thương mại); First City Div. của Chase Lincoln First Bank kiện Vitale, 510 NYS2d 766, 768 (NY App. Div. 1987) (giữ nguyên). 2

Edwards lập luận rằng Tòa án Tối cao Illinois sẽ phân biệt giữa các trường hợp từ bỏ hợp lý thương mại trước vi phạm và sau vi phạm, chỉ làm mất tác dụng của các trường hợp từ bỏ trước vi phạm. Lập luận này của Edwards dựa trên vụ Bayer, 57 Ill. App. 3d 295, và Solway, 825 F.2d 1213. Trong vụ Bayer, tòa án lưu ý rằng những người bảo lãnh đã không "từ bỏ hoặc sửa đổi yêu cầu thông báo sau khi xảy ra vi phạm." Xem id. at 300, 14 Ill.Dec. 647, 372 N.E.2d 926. Tuy nhiên, tuyên bố này dựa trên ngôn ngữ luật định rõ ràng cho thấy rằng người bảo lãnh có thể từ bỏ yêu cầu thông báo sau khi vỡ nợ. Xem 810 Ill. Comp. Stat. 5/9-504(3) (yêu cầu bên nhận bảo đảm gửi thông báo cho “con nợ” "nếu người đó không ký sau khi mặc định tuyên bố từ bỏ hoặc sửa đổi quyền thông báo bán."); xem thêm Bayer 57 Ill.App.3d at 299, 14 Ill.Dec. 647, 372 N.E.2d 926 (trích dẫn câu từ trong đây). Không có câu từ song song nào xuất hiện trong điều khoản hợp lý thương mại, cho thấy rằng luật cấm tất cả các từ bỏ điều khoản hợp lý thương mại. Trong vụ Solway, 825 F.2d at 1217 n.2, tòa án chỉ lưu ý trong một chú thích cuối trang rằng nó sẽ không trả lời được câu hỏi liệu luật Illinois có cho phép từ bỏ thông báo trước vi phạm hay không.

9

2.

Một số vấn đề pháp lý rút ra từ bản án dưới góc độ Luật Thương mại thống nhất (UCC)

2.1.

Vấn đề

Trong vụ kiện trên, AAR (hay còn gọi là “Người nhận bảo lãnh”) đã sở hữu lại động cơ đã bán thông qua việc bán đấu giá với mức giá là 250,000 USD thay vì 750,000 USD như giá trị ước tính. Tại cuộc bán đấu giá này, không có một người tham gia đấu giá nào khác. Vì vậy, Edwards (hay còn gọi là “Người bảo lãnh”) đã kháng cáo và cho rằng cả mức giá và cách thức của AAR đều không hợp lý về mặt thương mại (commercially reasonable). Tuy nhiên, phía AAR đã phản đói ý kiến này của Edward...


Similar Free PDFs