PHẠM NGUYỄN THANH UYÊN - 31211573005 - BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ TRIẾT K47 KDNN PDF

Title PHẠM NGUYỄN THANH UYÊN - 31211573005 - BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ TRIẾT K47 KDNN
Course Triết học
Institution Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 12
File Size 256.9 KB
File Type PDF
Total Downloads 367
Total Views 656

Summary

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP PHÂN HIỆU VĨNH LONGKHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ--  --TIỂU LUẬNMÔN HỌC : TRIẾT HỌC MÁC-LÊNINĐỀ TÀI : PHÂN TÍCH NỘI DUNG VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC , MỐI QUAN HỆBIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC? Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁPLUẬN CỦA MỐI LIÊN HỆ? THÔNG QUA THỰC TIỄN CUỘC...


Description

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM PHÂN HIỆU VĨNH LONG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ----

TIỂU LUẬN MÔN HỌC : TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

ĐỀ TÀI : PHÂN TÍCH NỘI DUNG VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC , MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC ? Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA MỐI LIÊN HỆ ? THÔNG QUA THỰC TIỄN CUỘC SỐNG, SINH VIÊN HÃY CHỨNG MINH SỰ TÁC ĐỘNG TRỞ LẠI CỦA Ý THỨC ĐỐI VỚI VẬT CHẤT ? Giảng viên hướng dẫn : TS Phan Thị Hà Sinh viên thực hiện : Phạm Nguyễn Thanh Uyên Lớp : AR001 – K47 MSSV : 31211573005 Mã học phần : 22D9PHI51002313

1

Vĩnh Long , ngày 15 tháng 2 năm 2022 LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, ruộng đất canh tác bình quần đầu người còn thấp, các tài nguyên khoáng sản tuy đa dạng phong phú, song trữ lượng không lớn như nhiều nước khác, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn nghèo, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đang trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế, khoa học, kỹ thuật so với các nước phát triển. Vì vậy, nền kinh tế muốn phát triển nhanh, mạnh và bền vững, thì phải phát huy tốt mọi nguồn lực. Bác Hồ đã từng có một câu nói thể hiện mong muốn mãnh liệt của Bác: “ Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn độc lập, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.” Để có thể hoàn thành tốt nhiệm bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã chỉ ra rằng chỉ có đi theo chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy nó làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Ngày nay, môn Triết học chính là một trong những phương pháp giúp ta hiểu và nắm rõ chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Là một sinh viên, một công dân Việt Nam, em muốn đóng góp một phần nhỏ công sức của bản thân vào công cuộc xây dựng, phát triển bằng cách lựa chọn đề tài “Phân tích nội dung Vật chất và Ý thức, mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ? Ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ ? Thông qua thực tiễn cuộc sống, sinh viên hãy chứng mình sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.” nhằm giúp mọi người hiểu thêm về chủ đề này nói riêng và môn Triết học nói chung. Lần đầu tiên em làm một bài tiểu luận hoàn chỉnh nên không thể tránh khỏi sự thiếu sót và sai lầm. Em rất mong nhận được sự chỉnh sửa cũng như ý kiến đóng góp từ cô bộ môn Triết học. Em xin chân thành cảm ơn!

2

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU...................................................................................................................2 NỘI DUNG........................................................................................................................4 I. Lý luận chung về Vật chất và Ý thức........................................................................4 1. Vật chất.............................................................................................................. 4 2. Ý thức................................................................................................................ 6 II. Mối quan hệ biện chứng giữa Vật chất và Ý thức....................................................7 III. Ý nghĩa phương pháp luận.....................................................................................8 IV. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất được chứng minh qua những việc làm cụ thể của bản thân................................................................................................9 KẾT LUẬN...................................................................................................................... 11 TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................12

3

NỘI DUNG I.

Lý luận chung về Vật chất và Ý thức

1. Vật chất Vật chất và các hình thức tồn tại của Vật chất Quan niệm của Triết học Mác – Lênin về vật chất Theo Ph.Ăngghen, để hiểu rõ được quan niệm đúng nhất về vật chất, chúng ta cần phải có được sự phân biệt rõ ràng giữa vật chất với tính cách là một phạm trù của triết học với bản thân các sự vật, hiện tượng cụ thể của thế giới vật. Trích trong C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), toàn tập, t.20, sdd.tr.751 “Vật chất, với tính cách là vật chất, là một sáng tạo thuần túy của tư duy và là một sự trừu tượng.Chúng ta bỏ qua những sự khác nhau về chất của những sự vật, khi chúng ta gộp chúng, với tư cách là những vật tồn tại hưu hình, vào khái niệm vật chất. Do đó, khác với những vật chất nhất định và đang tồn tại, vật chất, với tính cách là vật chất, một sáng tạo thuần túy của tư duy, và là một trừu tượng thuần túy, không có sự tồn tại cảm tính.” V.I.Lênin đã tiến hành tổng kết lại một cách toàn diện về những thành tựu mới nhất của khoa học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang lầm lẫn hoặc những xuyên tạc về thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con người về vật chất, qua đó bảo vệ và phát triển quan niệm duy vật biện chứng về phạm trù vật chất. Để có thể đi đến một quan niệm thực sự khoa học về Vật chất, Lenin đặc biệt quan tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này. Tiếp tục kế thừa những tư tưởng của Các Mác và Ăngghen, Lênin dã định nghĩa vật chất chất như sau: “ Vật chất là một phạm trù triết học và bằng cách đem đối lập với phạm trù ý thức trên phương diện nhận thức cơ bản”. Trích từ V.I.Lenin (1980), toàn tập, t.18, Sdd. Tr. 171, Lenin có viết: “Không thể đem lại cho 2 khái niệm nhận thức luận này một định nghĩa nào khác ngoài chỉ rõ ràng trong hai khái niệm đó, cái nào được coi là có trước.” 4

Qua đó, sử dụng phương pháp nêu trên, Lenin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất mà cho đến ngày nay, các nhà khoa học hiện đại coi nó là một định nghĩa kinh điển. Định nghĩa vật chất của V.I.Lenin bao hàm các nội dung cơ bản sau đây: Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào con người thì đem lại cho con người cảm giác. Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó. Những khẳng định trên có ý nghĩa vô cùng lớn trong việc bác bỏ thuyết “bất khả tri”, đồng thời làm động lực thúc đẩy các nhà khoa học đi sâu vào các vấn đề còn cần sự tìm tòi khám phá, mở rộng và làm giàu vốn kiến thức của nhân loại. Ngày nay, khoa học tự nhiên và khoa học xã hội – nhân văn càng ngày càng phát triển đã phần nào khẳng định tính đúng đắn của quan niệm biện chứng về vật chất, chứng tỏ định nghĩa vật chất của V.I.Lenin vẫn giữ nguyên giá trị, nhờ đó mà chủ nghĩa duy vật biện chứng đóng vai trò là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn của khoa học hiện đại. Phương thức tồn tại của vật chất Phương thức tồn tại của vật chất là bao gồm cách thức tồn tại và hình thức tồn tại của vật chất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẩng định: Vận động chính là cách thứ tồn, còn không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất. Không thể nào trên thế giới có vật chất không có sự vận động. Vật chất tồn tại bằng cách vận động, tức là khi vật chất ở dưới các dạng thức luôn luôn trong quá trình biến đổi không ngừng. Từ những thiên thể khổng lồ đến những hạt cơ bản vô cùng nhỏ, từ giới vô cơ đến đến giới hữu cơ, từ hiện tượng tự nhiên đến hiện tượng xã hội, tất cả đều ở trạng thái không ngừng biến đổi. Sở dĩ các hiện tượng, sự vật là một thể thống được cấu thành từ những nhân tố khác nhau, đối lập lẫn nhau. Qua quá trình tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau đã tao nên sự biến đổi nói chung, tức là vận động. 5

Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Đây là hai thuộc tính, hình thức tồn tại khác nhau của vật chất vận động, nhưng chúng không không thể tách rời mà phải luôn gắn kết với nhau. Không có một loại vật chất nào tồn tại trong một khoảng không gian mà không trải qua một quá trình biến đổi về thời gian. Ngược lại, không vật chất nào có sự tồn tại qua được một khoảng không gian nào đó mà không có kết cấu, quảng tính nhất định.

2. Ý thức

Nguồn gốc của ý thức

Bắt nguồn từ tự nhiên: Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức không tự sinh ra trong suy nghĩ của con người, chúng chỉ là tập hợp kết quả phản ánh được sao chép từ những tác động của thế giới bên ngoài đến con người. Đặc biệt, không phải vật chất chỉ có ý thức, chỉ những vật chất sống cấp cao là con người mới được coi là có ý thức. Bắt nguồn xã hội: Đi cùng với sự phát triển, hình thành suy nghĩ của con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội đã cho ra đời ý thức. Ý thức là một sản phẩm của xã hội, do nguồn có nguồn gốc trực tiếp và quyết định mạnh mẽ đến sự ra đời của ý thức là thực tế từ xã hội.

Bản chất của ý thức

Theo nhu chủ nghĩa duy vật biện chứng, Ý thức là một hình ảnh phản ánh sự vật khách quan trong suy nghĩ của con người. Ý thức không tồn tại với tính vật chất, nó chỉ là 6

những hình ảnh khắc họa mọi vật của thế giới vật chất thông qua các hoạt động như trừu tượng hóa, khái quát hóa một cách chọn lo. Sự phát triển của xã hội sẽ ảnh hưởng đến cả sự phát triển của ý thức. Các – Mác từng nói: “Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”. Một khả năng sáng tạo của ý thức đó chính nó không chỉ phản ánh sự vật hiện tượng, nó còn có thể chỉnh sửa, tạo ra một tri thức mới về sự vật, hiện tượng đó. Qua đó, ý thức đôi khi có thể được coi là có khả năng dự đoán trước tương lại, tạo ra các câu chuyện thần thoại, thậm chí có thể tạo lập nên các giả thuyết, lý thuyết khoa học đầy trừu tượng và khái quát. Thế nhưng, để có thể tạo ra những tri thức cải biến ấy, ta vẫn cần một cơ sở nhất định. Đó là tính phản ánh hiện thực khách quan của tri thức. Quá trình phản ánh ấy gồm một chuỗi quá trình thống nhất của 3 mặt Trao đổi thông tin – Mô hình hóa đối tượng – Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.

II.

Mối quan hệ biện chứng giữa Vật chất và Ý thức Vật chất và Ý thức tác động qua lại lẫn nhau hình thành 1 mối quan hệ 2 chiều.

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức diễn ra theo 2 hình thức sau:

Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức Tồn tại một cách khách quan nên ta có thể thấy vật chất là cái xuất hiện trước, mang tính thứ nhất. Ý thức chính là sự phản ảnh lại vật chất nên nó chính là cái xuất hiện sau, mang tính thứ hai. Nếu trong tự nhiên và xã hội không tồn tại vật chất thì sẽ không tồn tại ý thức, do đó ta gọi ý thức là thuộc tính, bị chịu sự quyết định và chi phối của vật chất. Ý thức cũng có tính sáng tạo và năng động nhưng những điều này đều dựa trên cơ sở tồn tại của vật chất và phải tuân theo các quy luật của vật chất. Hình thức biểu hiệu và nội dung của ý thức được quy định bởi vật chất. Điều này mang ý nghĩa rằng ý thức mang trong mình những thông tin về những đối tượng vật chất 7

cụ thể. Thông tin mà ý thức mang lại đúng hay sai, đầy đủ hay thiếu sót đều do mức độ tác động của vật chất lên tới bộ óc của con người.

Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất Tuy rằng vật chất là cái sinh ra ý thức nhưng ý thức không nằm trong thế thụ động mà sẽ có khả năng tác động trở lại vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức sau khi được sinh ra sẽ không bị các vật chất gò bó mà có khả năng tác động làm thay đổi vật chất. Vai trò của con người đối với khách quan được thể hiện qua vai trò của ý thức đối với vật chất. Qua các hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể tạo ra các thay đổi, cải tạo hiện thực khách quan, phát triể dần theo nhu cầu của con người theo thời gian. Mức động tác động nhiều hay ít của ý thức lên vật chất còn phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau như điều kiện, môi trường, nhu cầu,… và nếu quá trình tác động được tổ chức một cách hợp lý, đúng đắn thì khả năng ý thức tác động lên vật chất sẽ rất lớn. Ý thức tồn tại gắn liền với hiện thực khách quan. Việc nhận thức hiện thức khách quan chứng tỏ sức mạnh của ý thức, qua đó xây dựng kế hoach, mục tiêu ý chí giúp hoạt động con người tạo ra tác động với vật chất. Nếu tác động lên vật chất một cách tích cực sẽ giúp cho xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn và ngược lại, nếu không dùng đến nhận thức, lịch sử thế giới loài người sẽ bị kiềm hãm bởi ý thức.

III.

Ý nghĩa phương pháp luận Ý thức bao giờ cũng phải bắt nguồn từ hiện thực đời sống khách quan qua các hoạt

động. Tất cả tri thức của nhân loại được hình thành và tích lũy qua thời gian đều được thu nhận từ quá trình học tập, nghiên cứu bằng tổng hợp các hoạt động quan sát, phân tích, qua đó tạo nên sự tác động lên các đối tượng vật chất và khiến cho những đối tượng đó 8

thể hiện những thuộc tính theo các quy luật tự nhiên. Nhằm đáp ứng như cầu của chính bản thân, con người không ngừng đánh giá hiện thực khách quan, xác định ra những phương hướng, tạo lập những kế hoạch để thực hiện tác động vật chất một cách thành công. Ngoài ra, tập tránh xa những thói quen xấu như chỉ sử dụng căn cứ theo cảm tính, nhu cầu mà bỏ qua việc đánh giá nghiên cứu đối tượng vật chất bị tác động. Phải luôn thực hành phát huy khả năng sáng tạo, tính năng động, là những sức mạnh to lớn mà chỉ con người mới sở hữu. Xã hội càng lúc càng phát triển thì con người cũng phải càng biết cách thích nghi, tài năng hơn, chủ động trong công việc tìm tòi, khám phá những điều lạ, không ngừng sáng tạo ra những tri thức mới hoặc những vật chất mới. Đồng thời không ngừng luyện tập, rèn luyện, tu dưỡng tâm trí, nâng cao thể lực lẫn trí lực và không được bỏ cuộc giữa chừng. Tuyệt đối không được thụ động, nếu không sẽ bị tụt hậu với thời đại, không ỷ lại, lệ thuộc vào bất kỳ ai trong mọi trường hợp để tránh sa vào những suy nghĩ lười biếng, lười lao động.

IV.

Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất được chứng minh qua những việc làm cụ thể của bản thân Có hai chiều hướng mà ý thức có thể tác động trở lại với vật chất: Tích cực và tiêu

cực. Về mặt tích cực, chúng ta có thể hiểu như sau. Con người sử dụng các tri thức khoa học, vận dụng các nguyên lý, quy luật tự nhiên sẵn có cùng ý chí kiên cường không ngừng phát triển thì các hoạt động của con người sẽ được chuyển hóa từ ý thức và tác động lên các hiện thực khách quan quan, có thể cải tạo thế giới tự nhiên theo trí tưởng tượng của bản thân mình. Còn về mặt tiêu cực, nếu ý thức của con người phản ánh một cách sai lệch với thực tế cuộc sống, vận dụng sai tri thức, nguyên lý của thế giới thì sẽ tạo ra các hoạt động phản quy luật, đi trái với cơ sở lý luận xã hội, đồng thời dẫn tới những hệ quả tiêu cực cho hoạt động thực tiễn. Qua đây, ta thấy được, thông qua việc ý thức định hướng các hoạt động thực tế khách quan của con người, ý thức góp phần quyết định khả năng thành bại, đúng sai, hiệu 9

quả hay kém hiệu quả trong các hoạt động làm tác động đến thế giới vật chất của con người. Bản thân em đã và đang vận dụng tính sáng tạo, khả năng tư duy, làm cho ý thức tác động trở lại vật chất trong cuộc sống hằng ngày, học tập và làm việc. Năm lớp 11, em may mắn nhận được lời mời từ giáo viên chủ nhiệm kêu gọi em tham gia đề tài nghiên cứu khoa học về vấn đề trí thông minh nhân tạo A.I và áp dụng A.I vào học tập thường ngày. Đề tài này bắt nguồn từ cơn sốt A.I đang được nghiên cứu và phát triển trên thế giới, cũng như các bạn trẻ thời nay thường có tiếp xúc nhiều với đồ điện tử, nếu ta có thể tận dụng được sự lệ thuộc vào đồ điện tử này cùng với A.I sẽ đồng hành với các bạn như 1 gia sư miễn phí. Đồng hành cùng em khi đó là hai bạn cùng khối, hai anh chị khối 12 và một anh sinh viên trường Đại học Bách Khoa. Em phụ trách về mảng lấy thông tin dữ liệu cũng như phân tích các số liệu khảo sát được từ các bạn học sinh về cách thức học tập của họ. Tuy nhiệm vụ của em là thế nhưng trong suốt quá trình thực hiện dự án, em đã được học hỏi rất nhiều về các kiến thức liên quan đến công nghệ số, viết mã code,… Sau 5 tháng hoạt động, tuy bọn em chưa ra đời 1 A.I hoàn hảo nhưng đã có một sản phẩm hỗ trợ học tập tương đối ổn định. Sau khi nộp về cuộc thi Nghiên cứu khoa học cấp thành phố, tụi em may mắn dành giải Ba cấp thành.

10

KẾT LUẬN Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý thức có thể thấy: không bao giờ và không ở đâu ý thức lại quyết định vật chất. Trái lại, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo của ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức. Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ta có thể liên hệ bản thân để rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu đối với quá trình học tập và làm việc. Trước hết, trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải coi trọng thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm cho căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Bên cạnh đó, cần phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Như vậy, để đạt được thành công trong mọi lĩnh vực, con người cần trang bị các tri thức cần thiết và xác định đúng đắn mục tiêu, phương hướng hoạt động và tổ chức thực hiện. Cùng với nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình để đạt được mục tiêu đề ra. Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức liên hệ bản thân cá nhân tôi thấy được rằng bản thân phải luôn phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan. Đặc biệt cần tránh tình trạng bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại. Như vậy, bài viết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức liên hệ bản thân đã cho thấy bản chất, nguồn gốc của vật chất, ý thức. Từ đó, rút ra được kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh 11

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Trần Minh Khuê (2021). “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức” https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-kinh-te-thanh-pho-ho-chiminh/triet-hoc/moi-quan-he-bien-chung-giua-vat-chat-va-y-thuc/18537451 đã truy cập vào ngày 28/1/2022 [2] “Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức”. (2021) https://lytuong.net/moi-quan-he-giua-vat-chat-va-y-thuc/ đã truy cập vào ngày 28/1/2022 [3] Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, khoa Lý luận chính trị (2020). “Giáo trình Triết học Mác - Lênin” https://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/62220 tham khảo vào ngày 28/1/2022

12...


Similar Free PDFs