Pháp luật trong kinh tế đối ngoại Bản án số: 03/2021/KDTM-ST ngày 27/07/2021 tại Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng về vấn đề tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa PDF

Title Pháp luật trong kinh tế đối ngoại Bản án số: 03/2021/KDTM-ST ngày 27/07/2021 tại Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng về vấn đề tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Author Vu Hoang
Course Pháp luật trong kinh tế đối ngoại
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 18
File Size 385.1 KB
File Type PDF
Total Downloads 432
Total Views 593

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA LUẬTBÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦNPHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠIHọc kỳ 1 năm học 2021- Họ và tên Sinh viên: Vũ Huy Hoàng Ngày sinh: 30-09- Mã số sinh viên: 1911110164 Lớp tín chỉ: PLU419(GD2-HK1-2021). Khóa: 58Ngày thi: 22/12/ Ca thi: 01 Phòng thi: 1 Số trang ...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LUẬT

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Học kỳ 1 năm học 2021-2022 Họ và tên Sinh viên: Vũ Huy Hoàng

Ngày thi: 22/12/2021

Ngày sinh: 30-09-2001

Ca thi: 01

Mã số sinh viên: 1911110164

Phòng thi: 1

Lớp tín chỉ: PLU419(GD2-HK1-2021).2

Số trang bài làm: 07 trang

Khóa: 58

Điểm bài thi Bằng số

Họ tên và chữ ký của giáo viên chấm thi

Bằng chữ GV chấm thi 1:

GV chấm thi 2:

Hà Nội, tháng 12 năm 2021

MỤC LỤC

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 3 Phần I: TÓM TẮT TRANH CHẤP........................................................................ 4 Nội dung tranh chấp: ........................................................................................... 4 Phần II: PHÂN TÍCH, ĐƯA RA LUẬN CỨ VỚI VAI TRÒ LÀ LUẬT SƯ CỦA NGUYÊN ĐƠN: ..................................................................................................... 6 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 9 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 10 BẢN ÁN GỐC ...................................................................................................... 11

2

LỜI MỞ ĐẦU Sống và làm việc theo pháp luật đã luôn luôn đóng vai trò là một lời khẳng định, một chân lý không thể làm trái. Việc tôn trọng pháp luật, làm việc và hoạt động đúng với pháp luật không chỉ đem đến sự công bằng trong cuộc sống mà còn là yếu tố quan trọng giúp nền kinh tế phát triển bền vững. Hiện nay, những hoạt động kinh tế đối ngoại và xu hướng toàn cầu hóa đang phát triển mạnh mẽ, kể cả trong khi nền kinh tế bị ảnh hưởng do yếu tố bệnh dịch. Nhưng không vì vậy mà quan tâm và đặt quá nặng những hoạt động kinh tế đối ngoại mà quên mất những hoạt động kinh tế đang diễn ra trong nước. Hoạt động kinh tế diễn ra trong nước cần phải phát triển ổn định thì mới có thể đẩy nhanh và đẩy mạnh được những hoạt động kinh tế đối ngoại. Để có thể hiểu rõ hơn và thực tế hơn hoạt động kinh tế trong nước, nắm rõ hơn các điều luật kinh tế, có tư duy nhạy cảm và sắc bén hơn đối với các hoạt động kinh tế, em đã quyết định chọn Bản án số: 03/2021/KDTM-ST ngày 27/07/2021 tại Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng về vấn đề tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa để nghiên cứu và phân tích. Đối với em, đây là một bản án điển hình về vấn đề vi phạm liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa - một loại hợp đồng rất phổ biến. Ngoài ra, việc phân tích bản án này còn yêu cầu sự nghiên cứu bộ luật Thương mại năm 2005, từ việc nghiên cứu đó sẽ giúp em hiểu rõ và hiểu đúng bộ luật hơn. Không chỉ vậy, bản án cũng liên quan đến Bộ luật dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự, nên qua việc nghiên cứu bản án, em sẽ tiếp thu thêm được kiến thức về các bộ luật trên, hơn nữa còn hiểu được sự liên kết cũng như việc phân tích hành vi để áp dụng luật sao cho chính xác nhất. Do còn nhiều hạn chế trong việc tổng hợp tiếp thu các điều luật, cũng như tư duy về bản án chưa được sắc bén do chưa có kinh nghiệm nhưng em sẽ cố gắng tránh khỏi những thiếu sót cơ bản nhất khi thực hiện bài luận này. Vì vậy, em rất mong sẽ nhận được các ý kiến đóng góp đến từ cô để có thể hoàn thiện hơn và hiểu hơn về việc nghiên cứu luật cũng như phân tích các bản án trong tương lai.

3

Phần I: TÓM TẮT TRANH CHẤP Nguyên đơn: Công ty cổ phần E; địa chỉ: Tòa nhà Eo, Số 2 Tôn Thất T, phường TrT, quận Đ Đ, Thành Phố Hà Nội. Bị đơn: Công ty TNHH thương mại và xây dựng N; trụ sở: Thôn ThĐ, xã VQ, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Nội dung tranh chấp: Ngày 14-05-2019, Công ty cổ phần E (Công ty E) cùng Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng N (Công ty N) ký Hợp đồng mua bán số 1910579/19103206/2019/EW-NH về việc cung cấp cửa sổ, cửa đi và vách kính nhôm cho công trình nhà làm việc của Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh tỉnh Cao Bằng. Cụ thể như sau: -

Hàng hóa: Theo Phụ lục đính kèm hợp đồng. Giá cả (đã bao gồm thuế GTGT): 916.176.190 đồng (chín trăm mười sáu triệu, một trăm bảy mươi sáu nghìn, một trăm chín mươi đồng).

Thời hạn thanh toán: -

Đợt 1: Thanh toán 30% tổng giá trị hợp đồng tương đương 275.000.000 đồng, ngay sau khi ký hợp đồng.

-

Đợt 2: Ngay sau khi Công ty E giao hàng cho Công ty N được 50% số lượng sản phẩm theo quy định tại khoản 1.2 của Hợp đồng, sẽ thanh toán đến 95% giá trị được nghiệm thu (trừ đi 50% tạm ứng lần 1).

-

Đợt 3: Ngay sau khi Công ty E giao hàng toàn bộ cho Công ty N 100% số lượng sản phẩm theo quy định của Hợp đồng, sẽ thanh toán đến 95% giá trị được nghiệm thu (trừ hết tạm ứng).

-

Đợt 4: Khoản tiền còn lại của Hợp đồng tính theo khối lượng thực tế ghi trong biên bản nghiệm thu và thanh quyết toán công trình và sẽ được thanh toán ngay sau khi hai bên hoàn thành việc nghiệm thu lắp đặt sản phẩm.

Công ty N phải hoàn thành việc thanh toán cho Công ty E trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ thanh toán hợp lệ.

4

Về phía nguyên đơn: Trong quá trình thực hiện hợp đồng, E đã cung cấp hàng hóa đúng mẫu mã và thi hành lắp đặt thi công đảm bảo chất lượng công trình. Kể từ khi đến hạn thanh toán hợp đồng trên, mặc dù E đã nhiều lần làm việc trực tiếp hoặc đôn đốc bằng văn bản nhưng Công ty N vẫn không hợp tác trả nợ và không có lộ trình thanh toán khả thi. Việc Công ty N có các vi phạm trên đã gây thiệt hại về kinh tế cho Công ty E, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty E. Công ty E đề nghị Tòa án xem xét và tuyên buộc: -

Công ty N có trách nhiệm phải thanh toán cho Công ty E số tiền cả gốc và lãi.

-

Công ty N còn phải chịu tiền lãi chậm thanh toán kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số nợ trên thực tế theo mức lãi suất 0,05%/ngày.

Về phía bị đơn: Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty E mới lắp đặt phần cửa các loại và vách kính nhà khách, bên thi công mới chỉ thực hiện mang vật tư đến công trường. Không thực hiện vệ sinh toàn bộ cửa kính và lắp đặt cửa 2 trạm gác và nhà bảo vệ. Kỹ thuật Công ty N đã gọi điện nhiều lần cho nhân viên lắp đặt của Công ty E nhưng không trả lời và không lên công trình hoàn thiện nốt công việc còn lại nêu trên. Việc Công ty E chưa hoàn thành hết nội dung công việc theo hợp đồng, chưa hoàn thiện thủ tục liên quan đến quản lý chất lượng theo đúng các điều khoản đã ký trong hợp đồng, vì vậy chưa đủ cơ sở để công ty N quyết toán, đó là lý do chưa có cơ sở thanh lý hợp đồng. Công ty N không đồng ý với mức bồi thường phải chịu với lí do Công ty E không thực hiện đúng theo hợp đồng mua bán đã kí kết.

5

Phần II: PHÂN TÍCH, ĐƯA RA LUẬN CỨ VỚI VAI TRÒ LÀ LUẬT SƯ CỦA NGUYÊN ĐƠN: Thứ nhất, xét về tính hiệu lực của hợp đồng: Ngày 14-05-2019, Công ty cổ phần E (Công ty E) cùng Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng N (Công ty N) ký Hợp đồng mua bán số 1910579/19103206/2019/EW-NH về việc cung cấp cửa sổ, cửa đi và vách kính nhôm cho công trình nhà làm việc của Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh tỉnh Cao Bằng. Theo nhận thấy, hai chủ thể của hợp đồng đều là hợp pháp theo điểm a khoản 4 Điều 86 của Luật Doanh nghiệp 2020 “Các bên ký kết hợp đồng hoặc thực hiện giao dịch là những chủ thể pháp lý độc lập, có quyền, nghĩa vụ, tài sản và lợi ích riêng biệt”. Về ký kết hợp đồng, trong quá trình thực hiện ký kết Hợp đồng mua bán số 1910579/19103206/2019/EW-NH giữa nguyên đơn và bị đơn không có dấu hiệu hay báo cáo về hành vi ép buộc. Từ đó cho thấy việc ký kết hợp đồng giữa hai bên hoàn toàn được thực hiện trên cơ sở tự nguyện. Căn cứ theo Điều 24 Luật Thương mại 2005 về hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa, nhận thấy được hợp đồng này là hợp pháp. Về mặt hàng được lập hợp đồng: cửa sổ, cửa đi và vách kính nhôm Eurowindow đều là cách mặt hàng không thuộc danh sách cấm của pháp luật, chính vì thế nên việc lập hợp đồng ký kết giao thương các mặt hàng trên là hợp pháp. Từ những phân tích trên kết luận được rằng hợp đồng tồn tại giữa hai chủ thể hoàn toàn có hiệu lực, được pháp luật công nhận theo Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 và chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại theo quy định tại khoản 1 Điều 1 LTM 2005: “Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” Thứ hai, xét về khoản nợ gốc 322.769.530 đồng: Về khoản tiền theo hợp đồng, bên Công ty N phải thanh toán 30% giá trị hợp đồng cho Công ty E ngay sau khi hoàn thành kí kết hợp đồng (Công ty N đã thực hiện đúng theo hợp đồng). Sau khi Công ty E giao đủ số lượng hàng cho Công ty N, khoản tiền cần thanh toán là 95% giá trị hợp đồng (trừ đi khoản tiền đã thanh toán đợt 1). Số tiền còn lại chưa thanh toán sẽ được thanh toán nốt ngay sau khi hai bên nghiệm thu việc hoàn thiện lắp đặt sản phẩm, hoàn toàn hợp lý theo khoản 1 Điều 55 Luật Thương mại 2005: “Bên mua phải thanh 6

toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ liên quan đến hàng hóa”. Trong khi đó, công trình sản phẩm (Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh Cao Bằng) đã được đưa vào nghiệm thu và sử dụng từ 30-11-2019, chính vì vậy, bên Công ty N phải có trách nhiệm thanh toán nốt cho Công ty E từ ngày 30-11-2019 theo như Hợp đồng mua bán số 1910579/19103206/2019/EW-NH, được quy định rõ tại khoản 1 Điều 50 Luật Thương mại năm 2005: “Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận.” Về việc Công ty N sử dụng lý lẽ việc Công ty E chưa hoàn thành lắp đặt và vệ sinh công trình, khi Tòa yêu cầu đưa ra bằng chứng về các điều trên trong hợp đồng để xác thực, Công ty N cũng không đưa bằng chứng, chính vì thế lý lẽ mà bên công ty N đưa ra là hoàn toàn không thuyết phục. Thứ ba, về số tiền lãi và những chi phí phát sinh: Theo nhận định, trong hợp đồng nếu chậm thanh toán phải chịu lãi suất 0,1%/ngày, tức là 36% năm là cao hơn lãi suất quy định. Tuy nhiên việc chậm trễ thanh toán theo đúng hạn như hợp đồng gây tổn thất nhiều cho Công ty E, căn cứ theo Điều 306 Luật Thương mại năm 2005: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thảo thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”, xét về lãi suất khi chậm thanh toán, tỷ lệ lãi suất là do hai bên đã thỏa thuận trên phương thức tự nguyện, được ghi và hiển thị trên hợp đồng đã được kí kết nên việc áp dụng mức lãi suất trên với khoản tiền thanh toán chậm là chính xác. Theo đó, khoản tiền lãi chậm thanh toán mà Công ty N phải trả là: 320.769.530 đồng x 36%/năm x 2 năm = 230.954.062 đồng. 320.769.530 đồng x 36%/năm : 365 x 13 ngày = 4.112.881 đồng Tổng lãi chậm thanh toán phải trả là 235.066.943 đồng Về chi phí khác, gồm có phí vệ sinh công nghiệp cũng như án phí Công ty N cũng phải chịu. Về phí vệ sinh công nghiệp, do không có bằng chứng xác thực về điều khoản này trong hợp đồng nên việc trừ 2.000.000 đồng tiền phí vệ sinh công nghiệp của Công ty E trả 7

cho Công ty N là không thỏa đáng. Cộng thêm án phí là 20.680.600 đồng, trong đó có cả 8.070.000 đồng tiền án phí mà Công ty E đã ứng. Thứ tư, về thái độ trong quá trình giải quyết tranh chấp: Về phía nguyên đơn: Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Cảnh H – Tổng giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh C – Chuyên viên Phòng pháp chế. Có mặt tại phiên tòa ngày 22-3-2021 và có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa 297-2021. Có thu thập và nộp thêm bằng chứng và tài liệu quan trọng liên quan đến vụ việc, thực hiện quá trình xét xử một cách có trách nhiệm. Nguyên đơn đã chấp hành nghiêm yêu cầu của Tòa án về việc cung cấp chứng cứ, tham gia các hoạt động tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật Về phía bị đơn: Người đại diện theo pháp luật bà Phạm Thị H - Giám đốc. Vắng mặt. Phía bị đơn chưa chấp hành nghiêm túc yêu cầu của Tòa án về việc cung cấp chứng cứ và tham gia các hoạt động tố tụng: Bị đơn đã hai lần vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên H ội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, hơn nữa khi được yêu cầu nộp bằng chứng chứng minh cho việc nguyên đưa chưa hoàn thiện hợp đồng, bị đơn cũng không đưa ra được bằng chứng xác đáng.

8

KẾT LUẬN Sau khi phân tích về tranh chấp dựa trên các bộ luật, đặc biệt chủ yếu là Luật Thương mại 2005, có thể thấy rằng bên nguyên đơn đúng và có bằng chứng chứng minh mạnh mẽ cho những lý lẽ và yêu cầu của mình. V ới thái độ nghiêm túc trong quá trình tham gia xét xử, cùng với sự tích cực đáp ứng yêu cầu từ Tòa án, yêu cầu phía nguyên đơn đã được nhận được sự chấp thuận từ Tòa án. Về phía bị đơn, với thái độ chưa nghiêm túc trong quá trình xét xử, cũng như không cung cấp các bằng chứng cho những lý lẽ của mình, ý kiến từ chối nộp phạt cho nguyên đơn từ phía bị đơn đã bị Tòa án bác bỏ. Tuy nhiên, do khoảng thời gian xảy ra tranh chấp cho đến ngày Tòa án ra quyết định là khoảng thời gian dài, chính vì vậy có thể gây ra nhiều thiệt hại về mặt kinh tế cho phía nguyên đơn. Hơn nữa về con số tỷ lệ lãi trả chậm đã được hai bên thỏa thuận từ trước một cách tự nguyện, nên em đề xuất sửa đổi thành phía bị đơn cần phải bồi thường khoản tiền ứng với tỷ lệ chậm trả đã thỏa thuận đó thay vì khoản tiền ứng với lãi suất thị trường được ghi trong bản án. Trên đây là những nhận xét, phân tích và kết luận của em sau khi thực hiện nghiên cứu bản án này. Với mong muốn bồi thường những thiệt hại đã xảy ra một cách hợp lý và có căn cứ, em đã đưa ra đề xuất của mình trên cương vị là luật sư giả định cho phía nguyên đơn cùng với những dẫn chứng luật cụ thể. Em mong sẽ nhận được sự góp ý của cô để hoàn thiện hơn những bài nghiên cứu trong tương lai và đưa ra những đề xuất hợp lý hơn nữa.

9

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. 2. 3. 4.

http://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta752504t1cvn/chi-tiet-ban-an http://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta983t1cvn/chi-tiet-ban-an Bộ Luật Thương mại năm 2005 Bộ Luật Doanh nghiệp 2020

10

BẢN ÁN GỐC TOÀ ÁN NHÂN DÂN

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

HUYỆN VĨNH BẢO

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Bản án số: 03/2021/KDTM-ST Ngày 29-7-2021 V/v tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM -------------------------------------------------TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢ O, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG -

Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đỗ Văn Vinh

-

Các Hội thẩm nhân dân: 1.Ông Nguyễn Văn Quyết 2. Bà Phạm Thị Khanh

-Thư ký phiên toà: Ông Vũ Viết Hoàn - Thư ký Toà án nhân dân huyệnVĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo tham gia phiên toà: Ông Phạm Xuân Tâm - Kiểm sát viên. Ngày 29 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Bảo xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 05/2020/TLST- KDTM ngày 15 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các tổ 11

chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXXST- KDTM ngày 15 tháng 01 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa: 01/2021/QĐST- KDTM ngày 22 tháng 02 năm 2021, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 03/2021/QĐST – KDTM ngày 22 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự: Nguyên đơn: Công ty cổ phần E; địa chỉ: Tòa nhà Eo, Số 2 Tôn Thất T, phường Tr T, quận Đ Đ, Thành Phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Cảnh H – Tổng giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh C – Chuyên viên Phòng pháp chế. Có mặt tại phiên tòa ngày 22-3-2021 và có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa 29-7-2021. Bị đơn: Công ty TNHH thương mại và xây dựng N; trụ sở: Thôn Th Đ, xã V Q, huyện V B, thành phố Hải Phòng. Người đại diện theo pháp luật bà Phạm Thị H - Giám đốc. Vắng mặt. NỘI DUNG VỤ ÁN: Trong đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn thông qua người đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngày 14-05-2019, Công ty cổ phần E (Công ty E) cùng Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng N(Công ty N)ký Hợp đồng mua bán số 1910579/19103206/2019/EW-NH về việc cung cấp cửa sổ, cửa đi và vách kính nhôm cho công trình nhà làm việc của Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh tỉnh Cao Bằng. Cụ thể như sau: Hàng hóa: Theo Phụ lục đính kèm hợp đồng. Giá cả (đã bao gồm thuế GTGT): 916.176.190 đ (chín trăm mười sáu triệu, một trăm bảy mươi sáu nghìn, một trăm chín mươi đồng).Thời hạn thanh toán: Đợt 1: Thanh toán 30% tổng giá trị hợp đồng tương đương 275.000.000 đ, ngay sau khi ký hợp đồng. Đợt 2 : Ngay sau khi Công ty E giao hàng cho Công ty N được 50% số lượng sản phẩm theo quy định tại khoản 1.2 của Hợp đồng, sẽ thanh toán đến 95% giá trị được nghiệm thu (trừ đi 50% tạm ứng lần 1).

12

Đợt 3: Ngay sau khi Công ty E giao hàng toàn bộ cho Công ty N 100% số lượng sản phẩm theo quy định của Hợp đồng, sẽ thanh toán đến 95% giá trị được nghiệm thu (trừ hết tạm ứng). Đợt 4: Khoản tiền còn lại của Hợp đồng tính theo khối lượng thực tế ghi trong biên bản nghiệm thu và thanh quyết toán công trình và sẽ được thanh toán ngay sau khi hai bên hoàn thành việc nghiệm thu lắp đặt sản phẩm. Công ty N phải hoàn thành việc thanh toán cho Công ty E trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày Bên A nhận được hồ sơ thanh toán hợp lệ. Quá trình thực hiện hợp đồng, E đã cung cấp hàng hóa và thi công lắp đặt theo đúng thiết kế, đảm bảo chất lượng công trình. Ngày 20-6-2019, hai bên ký Bảng giá trị khối lượng nghiệm thu đợt 1; ngày 11-7-2019, hai bên ký Bảng giá trị khối lượng nghiệm thu đợt 2. Tổng giá trị quyết toán Hợp đồng (đã bao gồm thuế VAT) theo khối lượng sản phẩm thực tế Công ty Eurowindow cung cấp, lắp đặt cho công trình được Công ty N nghiệm thu: 897.769.530 đồng. Giá trị Công ty N đã thanh toán cho Công ty E là: 575.000.000 đồng. Giá trị Công ty N còn phải thanh toán cho Công ty E là: 322.769.530 đồng. Kể từ khi đến hạn thanh toán hợp đồng trên, mặc dù E đã nhiều lần làm việc trực tiếp hoặc đôn đốc bằng văn bản nhưng Công ty N vẫn không hợp tác trả nợ và không có lộ trình thanh toán khả thi. Việc Công ty N có các vi phạm trên đã gây thiệt hại về kinh tế cho Công ty E, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty E. Công ty E đề nghị Tòa án xem xét và tuyên buộc: Công ty N có trách nhiệm phải thanh toán cho Công ty E số tiền cả gốc và lãi là: 422.021.160 đồng, bao gồm: Số tiền nợ gốc phải thanh toán phát sinh từ nghĩa vụ thanh toán theo H ợp đồng mua bán số 1910579/19103206/2019/EW-NH với số tiền là: 322.769.530 đồng. Tiền lãi chậm thanh toán tạm tính trên số nợ gốc kể từ ngày 16-7-2019 đến ngày 22-3-2021 theo mức lãi suất 0,05%/ ngày là: 99.251.630 đồng. Công ty N còn phải chịu tiền lãi chậm thanh toán kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số nợ trên thực tế theo mức lãi suất 0,05%/ngày.

13

Bị đơn: Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng N (Công ty N) do bà Phạm Thị H chức vụ Giám đốc trình bày: Ngày 14-05-2019, Công ty E cùng Công ty N ký H ợp đồng mua bán số 1910579/19103206/2019/EW-NH về việc cung cấp cửa sổ, cửa đi và vách kính nhôm cho công trình Nhà làm việc của Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh tỉnh Cao Bằng như nguyên đơn trình bày là đúng. Quá trình thực hiện hợp đồng bên thi công là Công ty Eurowindow mới thực hiện phần cung cấp vật tư xây lắp đến công trường (theo biên bản giao nhận đợt 1 và 2). Công ty N đã thanh toán cho Công ty cổ phần E tổng số tiền là 575.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty E mới lắp đặt phần cửa các loại và vách kính nhà khách. Không thực hiện vệ sinh toàn bộ cửa kính và lắp đặt cửa 2 trạm gác và nhà bảo vệ. Kỹ thuật Công ty N đã gọi điện nhiều lần cho nhân viên lắp đặt của Công ty E nhưng không trả lời và không lên công trình hoàn thiện nốt công việc còn lại nêu trên....


Similar Free PDFs