TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MARX- Lenin PDF

Title TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MARX- Lenin
Author Quỳnh Lương
Course Triết học Mác Lênin
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 18
File Size 256.3 KB
File Type PDF
Total Downloads 295
Total Views 935

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ-------***-------TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MARX – LENINĐề tài: Lý luận Mác–xít về con người và vấn đề con ngườitrong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước Việt Nam hiện naySTT: 82Họ và tên: Lương Thị Diễm QuỳnhMSSV: 1911110330Lớp tín chỉ: TRI114(GD1+2-HK1-2122)K60.Giá...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -------***-------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MARX – LENIN Đề tài: Lý luận Mác–xít về con người và vấn đề con người trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước Việt Nam hiện nay

STT: 82 Họ và tên: Lương Thị Diễm Quỳnh MSSV: 1911110330 Lớp tín chỉ: TRI114(GD1+2-HK1-2122)K60.7 Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Tùng Lâm

Hà Nội, tháng 12 năm 2021

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................... 2 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN MÁC-XÍT VỀ CON NGƯỜI.............................................4 1.1. Những quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người:..................4 1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông:................................4 1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây:...................................4 1.2. Quan niệm của triết học Mác về bản chất của con người:...............................6 1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và xã hội:..............6 1.2.2. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội:................................7 1.2.3. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội:............8 1.3. Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống – xã hội:.................10 CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY.....................................................12 2.1. Tính tất yếu của công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước............................12 2.2. Vấn đề con người trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta .................................................................................................................................. 12 2.3. Vấn đề phát triển con người Việt Nam hiện đại: Phát triển nguồn lực con người........................................................................................................................ 14 2.3.1. Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay:.........................................................14 2.3.2. Giải pháp nâng cao, phát triển nguồn nhực con người:..............................14 KẾT LUẬN................................................................................................................. 16 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................17

1

ỜI MỞ ĐẦU Triết học về con người luôn là đề tài lớn, mang tính trung tâm không chỉ ở cổ đại mà đến hiện đại, ngày nay cũng vậy. Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối vưói sự hiểu biết và làm lợi cho con người. Nó luôn được các nhà triết gia không ngừng quan tâm và nghiên cứu phát triển. Và trong các hệ tư tưởng triết học đã được đưa ra, vấn đề con người trong triết học Mác–Lênin được nghiên cứu và trình bày một cách bao quát, đặc sắc và có tính khoa học nhất. Chủ nghĩa triết học Mác–Lênin đã cho chúng ta thấy rằng: “Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản suất vật chất, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà con người còn là chủ thể quan trọng của lịch sử, của sự tiến bộ của xã hội.”. Thực tế càng chứng minh rõ ràng hơn tầm quan trọng của con người trong xã hội cũng như trong triết học. Bởi lẽ, vấn đề con người ngày nay còn quan trọng hơn nữa, khi xã hội ngày càng phát triển trong quá trình hội nhập, nền văn minh ngày càng tiến bộ và cao cấp như hiện nay. Phát triển con người hiện nay đã và đang trở thành mục tiêu chung của toàn nhân loại. Làn sóng văn minh thứ ba đang đưa loài người đến một kỷ nguyên mới với những khả năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối cảnh đó, việc tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam càng dễ làm chúng ta đi đến việc phủ nhận vai trò, khả năng của chủ nghĩa Mác–Lênin, đưa chúng ta đến với sự sáng tạo những tư tưởng tôn giáo mới phù hợp với con người Việt Nam hơn. Mặc dù vậy, khi nhìn nhận lại một cách khách quan và khoa học thì sự tồn tại của chủ nghĩa Mác–Lênin trong xã hội ta chắc chắn rằng không ai có thể phủ nhận được. Thấm nhuần tư tưởng chủ nghĩa Mác–Lênin, Đảng và Nhà nước ta trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa Đảng ta cũng đã nhận ra và khẳng định: “Con người là trung tâm chiến lược phát triển đồng thời là chủ thể phát triển.”. Không những thế, trong Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người 2

Việt Nam toàn diện với tư cách là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Và trong đó, “con người phát triển cao và trí tuệ cường tráng về thể chất phong phú về tinh thần trong sáng về đạo đức”. Đặc biệt là trong giai đoạn đất nước ta đang bước vào thời kỳ thúc đẩy công nghiệp hóa – hiện đại hóa, vấn đề con người càng là yếu tố quan trọng để quyết định sự thành công. Vậy nên, trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cũng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa.”. Thực tiễn đã chứng minh rằng, con người luôn là trung tâm, là yếu tố quan trọng đưa đất nước phát triển, không có nhân tố con người thì đất nước không thể đi lên. Và để đóng góp một phần vào sự phát triển của đất nước, tôi, với tư cách là một sinh viên, một thế hệ của đất nước xin phép được chọn đề tài: “Lý luận Mác – xít về con người và vấn đề con người trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước Việt Nam hiện nay.” làm đề tài nghiên cứu của bản thân. Tuy đã dành thời gian nghiên cứu nghiêm túc và tỉ mỉ, song với kiến thức và thời gian có hạn, bài tiểu luận sẽ có những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự đóng góp và nhận xét của cô. Em xin chân thành cảm ơn!

3

CHƯƠNG 1:

LÝ LUẬN MÁC-XÍT VỀ CON NGƯỜI

hững quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người: Quan niệm về con người trong triết học phương Đông: Vấn đề triết học về con người vẫn luôn là một nội dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại. Trong suốt quá trình lịch sử, con người luôn đặt ra những vấn đề như: Con người là gì? Bản tính, bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do?.... Và đây cũng chính là nội dung cơ bản của nhân sinh quan – một nội dung cấu thành thế giới quan triết học. Trong nền triết học Trung Hoa từ cổ đến trung đại, vấn đề bản tính con người là cũng vấn đề được quan tâm hàng đầu. Để giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ giác độ khác và đi tới kết luận bản tính tự nhiên của con người. Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với những kết luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ. Còn đối với các nhà tư tư tưởng của các trường phái triết học ấn độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết lụân về bản tính vô ngã, vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây: Cũng như phương Đông, trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây từ Cổ đại Hy Lạp trải qua giai đoạn Trung cổ, Phục hưng và Cận đại đến nay, những vấn đề triết học về con người vẫn là một đề tài tranh luận chưa chấm dứt. Thực tế lịch sử đã cho thấy giác độ tiếp cận giải quyết các vấn đề triết học về con người trong nền triết học phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết học phương Đông. Các nhà triết học phương Tây đi theo lập trường triết học duy vật đã lựa chọn 4

giác độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề khác có liên quan. Ngay từ thời Cổ đại, các nhà triết học duy vật đã coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu là quan niệm của Đêmôcrit về bản tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và linh hồn của con người. Đây cũng là tiền đề phương pháp luận của quan điểm nhân sinh theo đường lối Êpiquya... Những quan niệm duy vật này đã được tiếp tục phát triển trong nền triết học thời Phục hưng và Cận đại mà tiêu biểu là các nhà duy vật nước Anh và Pháp thế kỷ XVIII; nó cũng là một trong những tiền đề lý luận cho chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Và trong một phạm vi nhất định, đó cũng là một trong những tiền đề lý luận của quan niệm duy vật về con người trong triết học Mác. Khác với các nhà triết học duy vật, các nhà triết học duy tâm trong lịch sử triết học phương Tây lại chú trọng giác độ hoạt động lý tính của con người. Tiêu biểu là quan điểm của Platôn thời Cổ đại Hy Lạp, Đêcáctơ trong nền triết học Pháp thời Cận đại và Hêghen trong nền triết học Cổ điển Đức. Các nhà triết học này đã lý giải bản chất lý tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên. Với Platôn, đó là bản chất bất tử của linh hồn thuộc thế giới ý niệm tuyệt đối; với Đêcáctơ, đó là bản tính phi kinh nghiệm (apriori) của lý tính; còn đối với Hêghen, thì đó chính là bản chất lý tính tuyệt đối... Nhìn chung, các quan điểm triết học trước Mác và ngoài Mác còn có một hạn chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Các quan điểm ấy, dù là đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình đền không phản ánh đúng bản chất con người, nó đều xem xét con người một cách trừu tượng, hoặc là tuyệt đối hoá mặt tinh thần, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác của con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người. Nhưng những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của triết học Mác–Lênin về con người. 5

uan niệm của triết học Mác về bản chất của con người: Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và xã hội: Triết học Mác đã kế thừa và khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất về yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Xét về mặt sinh vật học của con người, con người bao gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học chi phối đời sống cơ thể con người. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người, và tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Vậy nên, có thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, để khẳng định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật chính là yếu tố xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người động vật có tư duy... Nhưng những quan điểm này có một điểm chung chính là chúng chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy. Nhưng bằng vào phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. Mác đã khẳng định: "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình". Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Từ các hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã

6

hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy được quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người trong các mặt tự nhiên – xã hội. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội: Con người chính là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với tự nhiên sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành bản chất của con người. Ở đó, mối quan hệ xã hội giữa con người với con người là quan hệ bản chất, bao trùm lên các mối quan hệ khác, cũng như mọi hoạt động có liên quan của con người. Để nhấn mạnh điều đó, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Vậy nên, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Ở đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Tuy nhiên, luận đề trên khẳng định bản chất xã hội, nhưng nó không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội và vẫn luôn như vậy. Có quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người. 7

Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội: . Con người là chủ thể của lịch sử: Không có giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không có sự tồn tại của con người, bởi vậy, con người chính là sản phẩm của lịch sử, của sự biến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Song, cái quan trọng hơn cả là: Con người là chủ thể của lịch sử – xã hội. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Vì vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên, nhưng con người lại thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Và trong khi không ngừng cải biến tự nhiên, con người đã làm ra lịch sử của mình. Con người lúc này không chỉ là sản phẩm của lịch sử, mà còn là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Dựa vào lao động sản xuất, con người vừa tạo điều kiện cho sự tồn tại, vừa biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Họ thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do chính họ đặt ra. Có thể nói, không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp với lịch sử. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và biến đổi của bản chất con người (mặc dù không trùng khớp).

8

Vậy nên, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Từ đó, con người có thể tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người. 2. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội: Sự văn minh, tiến bộ là xu hướng chung hiện nay của toàn xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, sự phát triển của nền văn minh lại ẩn chứa những yếu tố đi ngược lại lợi ích chung của loài người (như công nghiệp hóa học tạo ra năng suất nhưng lại gây ô nhiễm môi trường; công nghệ máy móc hiện đại nhưng lại tạo nên vấn đề thất nghiệp gia tăng; hội nhập tạo ra cơ hội phát triển con người, phát triển quốc gia nhưng lại làm mờ nhạt dần bản sắc dân tộc;...). Do đó, vấn đề con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội ngày càng trở nên quan trọng. Thế kỷ XXI hiện nay là lúc có nhiều sự biến đổi to lớn, cả khoa học và công nghệ cũng đều sẽ có những thay đổi ngày càng lớn. Vì thế, nhiệm vụ đặt ra cho mỗi con người, mỗi quốc gia phải làm chủ được các thành tựu của văn minh của mình, phải loại trừ đi các yếu tố ngăn cản sự tự do, hạnh phúc của con người, đồng thời thúc đẩy làm biến đổi xã hội theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn. Thế giới hiện nay vẫn còn đang phải đối mặt với những yếu tố đe dọa sự tự do và hạnh phúc của con người (như dịch bệnh, thất học, thất nghiệp, đói nghèo, ô nhiễm môi trường, khủng bố, chiến tranh,...). Mỗi con người, cá nhân, quốc gia, các cộng đồng quốc tế hiện nay càng cần phải hướng đến sự bảo vệ con người, đặt con người là mục tiêu cho sự phát triển của xã hội. Vậy nên, để phát triển, theo quy luật tiến hóa của lịch sử tương lai sẽ thuộc về một xã hội tốt đẹp hơn, một xã hội không có tình trạng áp bức bóc lột một xã hội thống 9

nhất và văn minh với nhân đạo một xã hội mà trong đó mọi người có cuộc sống tự do hạnh phúc và xã hội đó chỉ có thể là XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, cũng như chủ nghĩa Mác– Lênin.

ai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống – xã hội: Thứ nhất, chủ nghĩa Mác là chính sách phát triển con con người và xã hội. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và nhân dân ta đã và đang xây dựng và phát triển đất nước toàn diện về nhiều mặt và lĩnh vực khác nhau. Trong đó, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược phát triển con người. Có phát triển con người chất lượng thì xã hội mới có thể tiến xa hơn. Và để phát triển thì chúng ta cần một chính sách đúng đắn, Đảng và nhân dân ta lấy tư tưởng và chủ nghĩa Mác–Lênin nền tảng cho chiến lược phát triển con người đúng hướng: “Cần đào tạo con người một cách có chiều sâu lấy tư tưởng và chủ nghĩa nghĩa Mác–Lênin làm nền tảng.”. Thứ hai, chủ nghĩa Mác là một chủ nghĩa về con người, một chủ nghĩa nhân đạo. Triết học Mác nghiên cứu các quy luật của thế giới, giúp ta hiểu được bản chất của các mối quan hệ tự nhiên – xã hội, kinh tế – chính trị, đồng thời còn chỉ ra con đường và phương pháp nghiên cứu về con người. Học thuyết đó không chỉ chứng minh bản chất của con người và...


Similar Free PDFs